Topics :
Được tạo bởi Blogger.

Bài đăng phổ biến

Latest Post

Chùa Việt Nam



Chùa Việt Nam



GS. Hà Văn Tấn




Nhân ngày rằm tháng Bảy, là ngày lễ Xá tội vong nhân, chúng tôi xin giới thiệu bài “Chùa Việt Nam trong đời sống văn hòa cộng đồng” của GS. Hà Văn Tấn in trong cuốn Chùa Việt Nam (*), xin cảm ơn nhiếp ảnh gia Nguyễn Văn Kự đã gửi bài và hình ảnh.


Tín ngưỡng, tôn giáo chỉ là một mặt của văn hóa. Văn hóa còn bao gồm nhiều mặt khác. Nhưng ngôi chùa cũng không phải chỉ biểu hiện cho tín ngưỡng. Ngôi chùa phản ánh nhiều mặt khác của văn hóa.
Trên đây, chúng ta đã cùng nhau khảo sát ngôi chùa Việt Nam qua các chặng đường lịch sử. Qua đó, chúng ta cũng đã biết được ít nhiều về vị trí của ngôi chùa trong đời sống văn hóa quá khứ của dân tộc này. Ta đã thấy qua bề dày lịch sử, sự hòa quyện của Phật giáo và các tín ngưỡng cổ truyền. Ta cũng đã gặp qua các thời kỳ, các vẻ đẹp và điêu khắc và kiến trúc chùa Việt Nam. Tất cả những điều đó biểu hiện một phần tâm hồn Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Nhưng như vậy, ta mới chỉ xem ngôi chùa Việt Nam như những di tích văn hóa. Mà các di tích thì bao giờ cũng im lặng và ngưng đọng, như trong không khí của các bảo tàng. Các ngôi chùa quả đúng là các bảo tàng: bảo tàng kiến trúc, bảo tàng điêu khắc, bảo tàng của những bi ký(1) hay của những ván in sách...
Nhưng chúng tôi không muốn nói đến những cái đó ở phần này, mặc dầu đó cũng là văn hóa.
Chúng tôi muốn nói về một ngôi chùa đang sống thật sự giữa các cộng đồng làng xã Việt Nam. Nơi đây"đất vua, chùa làng" mà! Làng Việt Nam là làng của những người nông dân trồng lúa nước, với hai vụ thu hoạch. Sinh hoạt của các ngôi chùa không thể nào tách rời khỏi cái nhịp điệu mùa của làng. Chúng ta biết rằng, trong các ngôi chùa, đều có mùa an cư kết hạ (ở yên trong mùa hè) tức là mùa mà các chư tăng họp nhau tịnh tu trì giới, học tập giáo lý, trong ba tháng không đi ra ngoài. Lễ kết hạ có nguồn gốc từ lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Người ta nói rằng, đức Phật trong cuộc đời hoằng pháp của mình, đã đi nhiều nơi, nhưng đến mùa mưa thì nghỉ lại, chỉ giảng dạy cho các đệ tử gần gũi của mình. Lễ kết hạ là tiếp tục truyền thống đó. Ở Việt Nam, theo các ghi chép, lễ kết hạ đã thấy có từ thời Lý. Trong các chùa Việt Nam, mùa kết hạ bắt đầu vào ngày rằm tháng tư Âm lịch và được kết thúc (gọi là xuất hạ hay giải hạ) vào ngày rằm tháng bảy Âm lịch. Thế nhưng, ngay ở Hà Nội hiện nay, các chùa ở các huyện ngoại thành bao giờ cũng được phép kết hạ muộn hơn một tháng. Lý do thật đơn giản, đó là vì ngoại thành Hà Nội đã là làng quê, mà trong tháng tư, tháng năm thì gặt hái đã xong đâu! Chừng đó thôi cũng đã thấy sự gắn bó giữa ngôi chùa Việt Nam với làng xã Việt Nam.
Và mùa kết hạ cũng không thể kéo dài. Ngày rằm tháng bảy là ngày lễ quan trọng của Phật giáo, đó là ngày hội (Vong nhân xá tội). Từ thời Lý-Trần đã thấy chép đến ngày lễ này. Lễ Vu Lan được tổ chức dựa vào kinh Vu Lan Bồn (Ullambana) để cầu nguyện cho người chết được siêu độ. Nhưng vì người Việt Nam là những người thờ cúng tổ tiên nên ngày lễ này trở thành có ý nghĩa đặc biệt. Người ta tin là vào ngày đó, linh hồn ông bà cha mẹ hay người thân thích đã chết được xá tội trở về (chỉ được tự do trong một ngày mà thôi!) và con cháu phải bày lễ cúng tế cẩn thận. Ở các chùa thì chư tăng thường làm lễ phóng sinh (như thả tự do cho chim, cá), nhưng đặc biệt là làm lễ chẩn tế cô hồn. Cô hồn là hồn những người chết bơ vơ, không nơi nương tựa, trở về xin "miếng cháo lá đa". Lễ chẩn tế còn gọi là lễ thí thực (cho ăn) là vì vậy. Những áng văn Nôm được truyền tụng như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, được coi là của Lê Thánh Tông, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du đều là lấy cảm hứng từ việc chẩn tế cô hồn ngày rằm tháng bảy.
Ngoài hội Vu Lan, hội Phật Đản (ngày sinh của đức Phật) vào ngày 8 tháng tư Âm lịch(2) cũng là một hội lớn của Phật giáo. Từ thời Lý-Trần, hội Phật Đản đã được tổ chức trọng thể. Một nghi thức quan trọng của ngày hội này là tắm Phật. Sách An Nam chí lược của Lê Trắc thời Trần chép: "Mài trầm hương, hòa hương với nước đem tắm tượng Phật. Dùng bánh tròn tinh khiết để dâng cúng". Ngày nay, người ta thường dùng nước ngũ vị hương (nước nấu bằng các hoa cỏ thơm) dội lên tượng Phật. Cái khăn lau tượng bằng vải đỏ cũng được xé ra chia cho mỗi người một mảnh để cầu phúc.
Lễ tắm Phật ở Việt Nam còn gắn liền với tín ngưỡng cầu mưa của người nông dân. Người ta tin rằng, trong ngày mồng 8 tháng tư, trời thế nào cũng mưa để lấy nước tắm Phật. Và ngược lại, lễ tắm Phật bằng cách dội nước cũng là một hình thức cầu mưa. Người nông dân Việt Nam tin rằng, ngày 8 tháng tư mà không mưa thì mùa màng sẽ mất. Đã có câu ca dao:
Mồng tám tháng tư không mưa,
Vứt cả cày bừa mà lấp ruộng đi.
Những cư dân trồng lúa cần nước. Trong bốn nhu cầu thiết yếu mà người nông dân Việt Nam đã tổng kết là "nước, phân, cần, giống" thì nước là hàng đầu. Mà ở khu vực nhiệt đới gió mùa này, nói đến nước là nói đến mưa. Chính vì thế mà khi Phật giáo mới truyền nhập vào Việt Nam, thì tại trung tâm đầu tiên là Luy Lâu, tức vùng Dâu, nó đã gắn kết với sự sùng bái bốn nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Các nữ thần này được thờ trong bốn ngôi chùa mà tượng của họ còn to hơn cả tượng Phật. Mây, mưa, sấm, chớp chỉ là biểu hiện của mưa. Cho nên có thể gọi chung bốn nữ thần này là các nữ thần mưa. Và họ đã được Phật hóa, đã trở thành các Phật. Từ các vua Lý đến các vua Lê, mỗi lần có hạn hán, đều cho rước Phật Pháp Vân về Thăng Long để làm lễ cầu mưa.
Như đã nói ở trên, hệ thống chùa Tứ Pháp có ở nhiều nơi trên châu thổ sông Hồng. Các hội chùa Tứ Pháp cho ta thấy một cách sống động sự tiếp hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng cầu mùa của người nông dân Việt Nam vẫn diễn ra.
Một số chùa Tứ Pháp như Dâu (tỉnh Bắc Ninh), Thứa (tỉnh Hưng Yên) mở hội vào ngày 8 tháng tư, trùng với ngày Phật Đản.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấp tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Vì đây là các chùa thờ Phật, các nữ thần Tứ Pháp cũng đã trở thành Phật Bà, nên việc lấy ngày Phật Đản làm ngày hội cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng, gần với ngày này, nhiều hội làng đã được mở trong vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Mồng bảy hội Khám(3)
Mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu
Cũng về hội Gióng(4)
Và có giả thuyết là những ngày này trùng hợp với Tết Mưa dông hay Hội Sấm dậy của vùng Đông Nam Á.
Trong hội chùa Dâu, ngày 8 tháng tư, các làng rước tượng ba bà Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Điện về chùa Dâu để họp mặt với chị cả là bà Pháp Vân. Người dự hội rất đông. Để "dẹp đám", tức mở đường cho đám rước, các tráng đinh đi theo kiệu bà Pháp Điện, người em út, múa một vũ khúc mạnh mẽ bằng 32 chiếc gậy.
Đúng Ngọ (12 giờ trưa), bà Pháp Vân (tức Bà Dâu) thi cướp nước với người em thứ hai là bà Pháp Vũ (tức Bà Đậu). Kiệu của hai bà được rước chạy từ cửa chùa Dâu ra cửa tam quan, được đặt xuống, người ta múc nước trong giếng, rồi rước kiệu về. Nghi thức cướp nước, lần nữa, cho ta liên hệ với lễ cầu mưa.
Sau đó đám rước lại đưa kiệu bốn Bà về chùa Tổ ở Mãn Xá để bái vọng Man Nương, được coi là mẹ của cả bốn nữ thần.
Ngày hôm sau, kiệu của bốn Bà được rước về chùa Tổ để thăm Mẹ lần nữa, sau đó các Bà trở về các ngôi chùa của mình.
Trong hội Dâu, ngoài trò cướp nước, dâng nước, đánh gậy, còn có múa hóa trang rùa và hạc, múa sư tử, múa trống, đấu vật, đánh cờ người và đốt pháo bông(5).
Ở các chùa thờ Tứ Pháp trong vùng huyện Mỹ Văn (tỉnh Hưng Yên), thì trong ngày hội, tượng của các nữ thần cũng được rước đến thăm nhau, riêng tượng bà Pháp Điện thì không bao giờ được rước khỏi chùa, mà chỉ chờ các bà chị đến, vì Pháp Điện là nữ thần Chớp, người ta tin rằng, nếu rước Bà khỏi chùa thì sẽ gây hỏa hoạn, Bà nhìn vào đâu thì ở đấy cháy.
Đó là trong những ngày hội định kỳ. Những ngày hội này là lễ "giao hiếu" giữa các thần mà cũng là giữa các làng. Còn vào lúc có hạn hán thì phải làm lễ đảo vũ tức lễ cầu mưa.
Chúng tôi muốn nhắc lại ở đây các lễ đảo vũ trong chùa Tứ Pháp vùng Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên.
Chùa Thái Lạc, nổi tiếng với những phù điêu thời Trần được nhắc đến ở phần trên cũng là ngôi chùa bà Pháp Vân (nên chùa có tên là Pháp Vân tự) ở vùng này. Lúc có hạn hán, người ta rước tượng Pháp Vân ra khỏi chùa, cùng với tượng của các bà Pháp Lôi, Pháp Vũ ở các chùa gần đó đến chùa Ôn Xá, được gọi là chùa Un, nơi thờ bà Pháp Điện để làm lễ cầu mưa. Tượng các Bà đều lớn, phải đặt lên bệ gỗ vuông, có sáu vòng sắt ở hai bên. Người ta luồn hai đòn gỗ sơn son qua các vòng sắt để khiêng. Người khiêng, được gọi là phù giá, là những trai tráng khỏe mạnh ở trần đóng khố vải điều, có tấm vải choàng chéo từ vai xuống sườn, được ghim lại ngang hông và hai đầu tấm vải buông tận đầu gối. Một người cầm cờ lệnh đi phía trước, hò lớn câu:
Ba Bà trẩy hội chùa Un
Mưa gió dùn dùn... thiên hạ dễ làm ăn... này.
Phật Bà ở làng nào thì có các cô gái làng ấy đi theo hai bên kiệu, một tay cầm quạt, một tay cầm phướn, vừa đi vừa kể hạnh, kể sự tích Tứ Pháp và niệm Nam Mô... Nếu gặp lúc mưa dầm dai dẳng thì người ta lại rước các Bà về chùa Un để cầu tạnh.
Lễ cầu mưa ở vùng chùa Thứa (Đại Bi tự, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên) có phần phức tạp hơn. Năm nào đại hạn, một chùa trong bốn chùa Tứ Pháp sẽ làm lễ cầu mưa ba ngày đêm, xong đóng cửa chùa nghỉ ba ngày. Nếu chưa mưa thì làm lễ cầu lại, rồi nghỉ chờ ba ngày. Nếu hai lần làm lễ cầu rồi mà trời vẫn chưa mưa thì phải cho người đến chùa Tứ Pháp bên cạnh làm lễ cầu mưa tiếp. Nếu đến lần thứ ba mà vẫn không mưa thì phải làm lễ xin keo (tức gieo hai đồng tiền) xin rước các Bà hội với nhau. Trước tiên là rước bà Pháp Vũ ở chùa làng Thanh Xá đến chùa làng Hoàng Đôi, nơi thờ bà Pháp Lôi. Dân hai làng làm lễ ở đây một đêm. Hôm sau, hai Bà lại được rước đến chùa làng Yên Phú, nơi thờ bà Pháp Điện. Hai Bà ở lại đây một đêm, để dân làng làm lễ cầu mưa, rồi hôm sau lại được rước đi. Chúng ta nhớ là bà Pháp Điện chẳng bao giờ đi đâu cả. Chỉ có hai bà Pháp Vũ và Pháp Lôi được rước đến đình làng Nguyên Xá, ở đây ba đêm rồi trở về họp mặt với bà Pháp Vân ở chùa Thứa. Sau chừng 4 giờ làm lễ, hai bà Pháp Vũ và Pháp Lôi lại được rước về các chùa của họ.
Nếu đại hạn trầm trọng, thì các làng trong huyện phải rước các thành hoàng tức thần của làng, đến hội với các bà Tứ Pháp ở một đình làng nào đó, tiếp tục làm lễ cầu mưa(6).
Như vậy, điều thú vị mà ta thấy ở đây là có cuộc gặp gỡ giữa các thành hoàng, tức các thần của làng, được thờ trong các đình với các nữ thần mưa Tứ Pháp, đã được Phật hóa và được thờ trong các chùa Phật, để cùng làm một nghi lễ nông nghiệp là cầu mưa.
Đó là một điểm độc đáo của Phật giáo Việt Nam, cũng là của văn hóa Việt Nam, và từ đây có thể nhận ra vị trí của ngôi chùa giữa cộng đồng làng xã Việt Nam.
Làng Việt Nam có đình thờ thành hoàng, tức thần của làng, có đền thờ một vị thần nào đó, và có chùa thờ Phật. Và do đó, làng xã Việt Nam, có thể có hội đình, hội đền, hay hội chùa.
Trong hội chùa, có những nghi lễ Phật giáo như tụng kinh, lễ Phật, chạy đàn, phóng sinh... Nhưng vì nhiều ngôi chùa Việt Nam, không chỉ có thờ Phật mà còn thờ cả thần, cả Mẫu, nên qua hội chùa, ta sẽ thấy rõ sự dung hợp tín ngưỡng tôn giáo rộng rãi và cởi mở ở người Việt Nam. Đặc biệt là các vị thần (được gọi là Đức Thánh) được thờ trong các chùa kiểu "tiền Phật hậu Thần", thường là chung của nhiều làng. Hội chùa của các chùa kiểu này thường được tổ chức trong cùng một ngày. Chẳng hạn:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy.
Đó là vì chùa Láng (Hà Nội) và chùa Thầy (tỉnh Hà Tây) đều là những chùa "tiền Phật hậu Thần" thờ Từ Đạo Hạnh. Vì thần cũng vốn là con người, nên người ta thường tìm ra nơi thờ của cha thần, mẹ thần, và thậm chí kẻ thù của thần, có thể ở những làng khác nhau. Và trong những ngày hội như vậy, các đám rước hiệu thần không chỉ giới hạn trong một làng, mà còn diễu qua nhiều làng. Dân của nhiều làng tham gia vào hội. Ví dụ như hội chùa Láng(7). Và trong những trường hợp như vậy, hội chùa đã vượt ra khỏi khuôn khổ của hội làng. Các hội chùa Tứ Pháp cũng có tính chất đó.
Do đó, có thể dễ dàng nhận ra trong hội chùa, các yếu tố quan hệ "liên làng" (intervillage), hoặc thậm chí "siêu làng" (supravillage)(8). Việc thần thành hoàng của các làng trong cả một huyện phải họp mặt với các Phật Bà Tứ Pháp như trường hợp ở tỉnh Hưng Yên nói tới trên đây càng làm cho chúng ta thấy rõ các quan hệ đó.
Như vậy là qua hội chùa, ta thấy ngôi chùa không chỉ gắn bó với sinh hoạt văn hóa làng mà còn liên hệ với cả văn hóa vùng.
Hội làng Việt Nam, trong đó có các hội chùa, thường chia làm hội mùa xuân và hội mùa thu, tổ chức vào các giai đoạn nông nhàn, tức là lúc không bận rộn công việc đồng áng. Nhìn vào lịch các ngày hội chùa, ta cũng thấy rõ điều này. Phần lớn hội chùa là hội mùa xuân. Hội mùa xuân dài nhất nước là hội chùa Hương, từ mồng 6 tháng giêng đến rằm tháng ba. Trong tháng giêng có hội chùa Phật Tích, hội chùa Quỳnh Lâm, hội chùa Côn Sơn. Một số chùa Tứ Pháp cũng làm hội vào 17 tháng giêng, ngày hóa của Man Nương. Tháng hai, có hội chùa Nành, hội chùa Trầm, hội chùa Bối Khê... Tháng ba, ngoài hội chùa Láng và hội chùa Thầy nói trên, còn có hội chùa Tây Phương tổ chức từ mồng 6 đến mồng 10.
Nhớ ngày mồng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây.
Một số chùa ở Thái Bình như chùa Từ Vân (ở Bách Thuận, huyện Vũ Thư), chùa Bồ (thị xã Thái Bình) cũng mở hội vào tháng ba.
Sang tháng tư, ngoài chùa Dâu, khá nhiều chùa mở hội.
Cũng có chùa vừa mở hội xuân vừa mở hội thu. Tiêu biểu là chùa Keo (Thần Quang tự, ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ngôi chùa đẹp và lớn được xây dựng vào thế kỷ XVII(9) đã nói tới ở phần trên và cũng được giới thiệu trong cuốn sách này. Hội xuân chùa Keo mở vào mồng 4 Tết Nguyên đán và hội thu mở từ ngày 13 đến ngày rằm tháng chín Âm lịch.
Hội xuân ở chùa Keo được tổ chức với những trò vui như bắt vịt, thi ném pháo, thi nấu cơm. Thi ném pháo là một trò độc đáo. Người ta chôn vào sân chùa hai cột tre dài khoảng bảy, tám mét và cách xa nhau chừng bốn mét. Một cây tre ngang nối đầu ngọn hai cây tre. Giữa cây tre ngang này, người ta treo một nón pháo bằng một đoạn dây dài nửa mét. Nón pháo là một khung tre phất giấy hình nón cụt treo ngược, bên dưới một tấm giấy xát thuốc cháy gọi là "lá đề", được nối với nhiều pháo tép, bốn quả pháo nhỡ và cuối cùng là một quả pháo lớn.
Những người thi ném pháo đứng phía ngoài một dây chắn, đốt từng chiếc pháo tép và ném pháo nổ trúng lá đề, lá đề cháy, bắt vào ngòi pháo và làm pháo nổ dây truyền trong khoảng hai ba mươi phút. Khi quả pháo lớn nổ, trên không bật ra một chiếc dù, kéo một tấm vải với dòng chữ: Thiên Hạ Thái Bình, Phong Đăng Hòa Cốc. Năm nào pháo nổ giòn giã, người ta tin là mùa màng sẽ tươi tốt. Cũng có năm không có ai ném trúng, và lúc đó, các cụ già trong làng phải làm lễ để xin châm lửa đốt pháo.
Rõ ràng thi ném pháo cũng là hình thức của lễ cầu mùa. Phải chăng tiếng pháo là tượng trưng cho tiếng sấm.
Thi nấu cơm cũng là một hoạt động trung tâm của hội xuân ở chùa Keo. Sáng mồng 4 Tết, trên sân trước chùa Hộ (nhà tiền đường), tám nhóm người đại diện cho tám giáp của làng, sẵn sàng vào cuộc thi. Sau ba hồi trống, ông chủ khảo châm lửa đốt nén hương dài đến 20cm. Hương bắt đầu cháy thì tám chàng trai của tám giáp chạy bốn vòng quanh ao chùa. Hết vòng thứ tư, mỗi người xuống ao múc một lọ nước mang về cho cô gái giáp mình. Cùng lúc đó, hai người nữa cũng khẩn trương vo gạo, giã bột, xiết đỗ... Còn cô gái thì lấy lửa bằng một hình thức rất nguyên thủy là cọ hai thanh nứa già vào nhau, làm bật ra những tia lửa, bén cháy vào tấm bùi nhùi rơm. Việc thổi nấu rất nhanh đến mức là khi nén hương dài vừa cháy hết, trên các chiếc mâm đồng của một số giáp, đã có đủ hai bát cơm, bốn bát chè, hai đĩa xôi và hai đĩa bánh. Sau khi mâm cỗ được đặt lên cúng ở bàn thờ Phật và Thánh, ban giám khảo tiến hành chấm thi. Cỗ của giáp nào được nấu nhanh nhất và ngon nhất thì được giải thưởng lớn. Cuối cùng mâm cỗ được ban phát cho mỗi người một ít, gọi là "thụ lộc", để lấy cái may mắn đầu năm.
Cũng như thi ném pháo, trò thi nấu cơm gắn liền với lễ cầu mùa.
Hội thu chùa Keo từ ngày 13 đến ngày rằm tháng chín. Ngày 13 được coi là ngày thứ một trăm sau ngày mất của thánh tăng Không Lộ, còn ngày rằm là ngày lễ Phật giáo hằng tháng. Đã có câu ca dao:
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm.
Từ mồng 3 tháng sáu đến rằm tháng tám, làng Keo đã chuẩn bị cho hội thu, người ta đã dùng lụa may áo cho tượng Thánh (sư Không Lộ), và chọn một ngày tốt trong khoảng từ rằm tháng tám đến mồng 10 tháng chín, làm lễ thay áo cho tượng. Làng đã chọn 42 chàng trai khỏe mạnh để chuẩn bị cho việc rước kiệu hương án, long đình, thuyền rồng và thuyền cò (thuyền nhỏ). Các buổi chiều ngày 10, 11, 12, cả tám giáp đã hạ trải (thuyền đua) xuống sông trước chùa tập bơi, chuẩn bị vào hội.
Hội bắt đầu ngày 13. Từ sáng, hương án, long đình, thuyền rồng và thuyền cò đã được rước ra ngoài tam quan ngoại (chúng ta nhớ là chùa Keo có hai tam quan, trong và ngoài). Buổi chiều, bắt đầu cuộc đua trải giữa tám giáp. Trải ở hội Keo khá lớn, đóng bằng gỗ dổi dài 12m, lòng sâu nửa mét, đoạn giữa rộng 1,2m, hai đầu trải hơi cong. Mỗi trải có 15 người đóng khố, mặc áo nẹp ngắn không có tay, đầu chít khăn cùng màu. Mỗi trải có một màu áo riêng. Các trải bơi đua từ sông Trà Lĩnh là con sông nhỏ trước cửa chùa Keo ra sông Hồng rồi quay trở về. Cuộc thi bơi trải tiếp tục trong ba ngày 13, 14 và 15.
Trong khi đó, ngày 13, tại tòa "giá roi” của chùa, diễn ra cuộc thi đọc lời cúng của thầy cúng. Buổi tối, có cuộc lễ thánh ở nhà thiêu hương. Sau lễ thánh là cuộc thi biểu diễn kèn trống. Sáng hôm sau, ngày 14, có cuộc rước kiệu thánh và thuyền rồng từ thượng điện ra tam quan ngoại. Đến tối, lại rước về nhà thiêu hương. Khi đám rước đi qua bờ ao, có bốn người điều khiển bảy hình người rối bằng gỗ trong ao.
Chiều ngày 14, ở tòa "giá roi", một nghi lễ chầu thánh được tiến hành, gọi là điệu múa "ếch vồ". 12 người đứng thành hai hàng. Khi nghe một tiếng trống, tất cả đặt tay lên ngực, rồi quỳ xuống, hai đầu bàn chân xòe ra hai bên, gót chân chụm lại, hai tay chống xuống mặt đất. Khi nghe tiếng trống tiếp theo, tất cả bật dậy, đứng như tư thế ban đầu. Các động tác này lặp đi lặp lại năm lần. Ngày rằm, việc rước kiệu giống như ngày 14, chỉ khác là vào ban đêm, khi đã rước kiệu về cung, cuộc lễ thánh được tiến hành bằng lễ chèo trải cạn, kết thúc ba ngày hội(10).
Hội thu chùa Keo nghiêng về phía các nghi lễ cúng tế vị thánh thờ ở chùa này, là Dương Không Lộ, một nhà sư thời Lý đã được thần hóa, truyền thuyết đã có phần lẫn lộn với nhà sư Nguyễn Minh Không. Nhưng trong hội thu chùa Keo, những cuộc đua thuyền diễn ra liên tục trên sông, và cả lễ chèo thuyền trên cạn, trước điện thờ, cũng hé cho ta thấy mối liên hệ với ngày hội nước trong nghi lễ nông nghiệp, như đã thấy, ở khắp vùng Đông Nam Á(11). Ngay điệu múa biểu hiện những con ếch nhảy trước điện thờ có lẽ cũng có mối liên hệ với lễ cầu mưa.
Nói đến hội chùa, không thể không nhắc đến hội chùa Hương, một hội xuân kéo dài suốt ba tháng, từ mồng 6 tháng giêng đến ngày rằm tháng ba. Gọi là hội chùa Hương, thực ra là một mùa hội mà các tín đồ Phật giáo cũng như du khách đến chiêm bái các đền chùa trong khu vực Hương Sơn, mà trung tâm là chùa Hương, ngôi chùa trong động Hương Tích, một hang núi đá vôi lớn. Hương Sơn là một khu vực rộng, có những dãy núi đá vôi nhấp nhô, giữa núi là những thung lũng hẹp và những dòng suối lớn. Người ta có thể ngồi thuyền theo các dòng suối hay đi bộ theo những con đường ven núi để đến các ngôi đền, ngôi chùa dựng trên núi hay trong các hang núi. Vùng này có nhiều chùa trong hang như chùa Cá, chùa Cây Khế, chùa Hinh Bồng, chùa Tiên, chùa Giải Oan, chùa Tuyết Sơn, và nổi tiếng hơn cả, có vị trí trung tâm, là chùa Hương Tích.
Khu vực Hương Sơn được Phật giáo biết đến khoảng thế kỷ XV, nhưng các ngôi chùa chính được xây dựng với quy mô lớn là vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Cho đến đầu thế kỷ XX, thì cả khu vực này, đã có hơn một trăm ngôi chùa mọc lên. Trong suốt mùa hội, hàng chục vạn tín đồ Phật giáo và du khách từ nhiều miền của Việt Nam đã đến đây để thăm viếng, lễ bái những ngôi chùa này, theo những tuyến đường khác nhau(12).
Trong tâm thức của tín đồ Phật giáo Việt Nam, Hương Sơn là cõi Phật. Một biểu hiện rõ rệt của Phật giáo vùng Hương Sơn là tín ngưỡng Quan Âm. Truyện Nam Hải Quan Âm sáng tác của một nhà sư Trung Quốc thời Nguyên, khi du nhập vào Việt Nam đã được Việt Nam hóa hoàn toàn. Diệu Thiện, nàng công chúa thứ ba, con vua Diệu Trang nước Hưng Lâm đã đi tu không phải ở nơi nào khác mà chính vùng Hương Sơn. Diệu Thiện, mà người Việt Nam gọi là Bà Chúa Ba, tu hành chín năm trong động Hương Tích, đã đắc đạo trở thành Phật Bà Quan Âm. Có cả một truyện thơ nôm dài kể về chuyện Quan Âm Nam Hải ở Hương Tích. Theo truyện thơ này, về sau cả gia đình Diệu Thiện đều về tu ở động Hương Tích, người chị cả tên là Diệu Thanh trở thành Văn Thù Bồ Tát, người chị hai tên là Diệu Âm trở thành Phổ Hiền Bồ Tát.
Ngày nay, trên điện Phật trong động Hương Tích, còn có pho tượng Quan Âm bằng đá, ngồi một chân co, một chân duỗi, tay cầm viên ngọc. Theo văn bia trong động, pho tượng này được tạc năm 1793, thay cho pho tượng đồng có từ trước đã bị mất. Còn ở cung Tiên, cũng trong vùng Hương Sơn, có pho tượng bằng đá trắng. Đó là những nhân vật trong gia đình Bà Chúa Ba Diệu Thiện. Bà Chúa Ba ngồi giữa, phía sau là bố mẹ, phía trước là hai người chị. Chị cả Diệu Thanh cưỡi con sư tử xanh (có nghĩa là đã trở thành Bồ Tát Văn Thù) và chị hai là Diệu Âm cưỡi con voi trắng (tức là trở thành Bồ Tát Phổ Hiền). Những người thợ đá ở Kiện Khê (tỉnh Hà Nam) đã dựa vào chuyện Bà Chúa Ba để tạc các bức tượng này vào năm 1907.
Như vậy, Quan Âm Nam Hải đã được Việt hóa và trở thành Quan Âm Hương Tích. Niềm tin rằng Hương Tích là nơi đắc đạo của Phật Bà Quan Âm đã tạo cho vùng này một sức hấp dẫn lớn đối với tín đồ Phật giáo. Nhưng hội chùa Hương không chỉ là của những phật tử miệng niệm tên Phật A Di Đà đi chiêm bái nơi có thánh tích Quan Âm. Hội chùa Hương, cũng như khu vực Hương Sơn, đã gắn kết Phật giáo với nhiều tín ngưỡng khác.
Hội chùa Hương bắt đầu với lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) ngày mồng 6 tháng giêng, tổ chức ở đền Ngũ Nhạc, là đền thờ một vị thần núi, dưới dạng một ông Hổ. Mâm lễ phải có một con lợn còn sống. Trong vùng Hương Sơn cũng có nhiều điện, đền thờ Mẫu như điện trước chùa Giải Oan, điện Cô gần chùa Tuyết, cách chùa Giải Oan chừng 200m là đền Cửa Võng thờ Mẫu Thượng Ngàn...
Ngay trong động Hương Tích, nơi thờ Quan Âm, cũng có những nhũ đá được gọi là Đụn Gạo, Cây Vàng, Cây Bạc, Núi Cậu, Núi Cô... Ai mong có con trai thì xoa tay vào đầu Núi Cậu, ai mong sinh con gái thì xoa tay vào đầu Núi Cô. Người nông dân cầu được mùa thì sờ vào Đụn Gạo, người buôn bán muốn phát tài thì sờ vào Cây Vàng, Cây Bạc...
Ngay trong truyện Quan Âm Nam Hải, ta cũng đã thấy sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng Mẫu (Tam Phủ):
Tu hành đã được mấy niên,
Bao nhiêu phép Phật, phép tiên vào lòng.
Bây giờ Tam Phủ cộng đồng,
Hộ thành quả phúc phán trong lệnh truyền.
Trong hội chùa Hương, chúng ta còn có dịp biết đến một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian: hát chèo đò, "Thông thường các tín đồ đạo Phật vào chùa Hương đi thành đoàn. Sau lễ Phật, các vãi thường ở một nơi và nhóm dậy hình thức sinh hoạt vui là hát chèo đò. Hát chèo đò được thực hiện ở bất cứ chỗ nào, đông vui hơn cả là ở sân chùa, sân nhà tổ. Các vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác như chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật. Các vãi già nghe hát, chắp tay thành kính và xướng lại lời con hát như thể thức hát hò”(13).
Ở đây, ta thấy sự gắn bó những ngôi chùa Việt Nam với các hình thức sáng tác - diễn xướng dân gian. Đây không phải là trường hợp riêng cho hội chùa Hương.
Người Việt Nam ai cũng biết "quan họ" là một hình thức dân ca đặc sắc phổ biến ở vùng Kinh Bắc xưa (nay là tỉnh Bắc Ninh), với làn điệu rất phong phú, được hát bởi những nhóm bạn nam nữ "liền anh", "liền chị". Nếu khảo sát các làng quan họ, sẽ nhận ra một mối liên hệ chặt chẽ giữa các hội hát với các ngôi chùa. Ở các làng quan họ có chùa, thì ngày hội chùa cũng là ngày hội hát của làng. Các làng quan họ thường có hội chùa trong tháng giêng và tháng hai Âm lịch. Lịch hội chùa của các làng quan họ như sau:
Trong tháng giêng, ngày 4: làng Chắp; ngày 5: các làng Ó, Muôi, Dạm, Bưởi; ngày 6: các làng Ném, Sẻ; ngày 7: các làng Đống Cao, Báng, Nhồi, Khám; ngày 8: các làng Chọi, Đọ; ngày 9: các làng Và, Bò, Nguyễn; ngày 10: các làng Nác, Hộ, Vệ, Bịu Thị, Rừng Cống, Chè; ngày 11: làng Nếnh; ngày 12: các làng Sói, Bịu Trung; ngày 13: các làng Lãng Giang, Lũng Sơn, Nội Duệ, Yên Từ; ngày 14: làng Mành; ngày 15: các làng Trà, Đông Mơi, Tam Tảo, Diềm; ngày 16: Thị Cầu (chùa Trong), Tam Sơn; ngày 18: Thanh Sơn; ngày 20: Thị Cầu (chùa Ngoài); ngày 25: Ngang Nội; ngày 28: Bùi.
Trong tháng hai, ngày 2: làng Đặng Xá; ngày 6: làng Tiêu Thượng; ngày 7: làng Tiêu Long; ngày 15: làng Điều; ngày 19: các làng Yên Xá Ngoại, Thụ Ninh(14).
Để thấy rõ hơn mối liên hệ giữa Phật giáo với diễn xướng quan họ cùng các tín ngưỡng khác, chúng ta nên dừng lại một chút ở hội làng Nhồi và hội làng Bùi.
Làng Nhồi (tức làng Hòa Bình) là một làng quan họ có hội chùa vào ngày 7 tháng giêng Âm lịch. Thành hoàng của làng này là một nữ thần, tên là Bà Đống, dân làng tin là thần ở trên một gò đất, thuộc làng Đống Cao bên cạnh. Trong ngày hội, dân làng Nhồi phải rước Bà Đống về chùa Phật của làng. Từ tối ngày mồng 6, một số cô gái chưa chồng làng Nhồi đã đi ngủ chung với nhau ở một chỗ nào đó. Nửa đêm, khi chuông chùa vang lên, các cô thức dậy, lặng lẽ đi đến gò đất làng Đống Cao, để "mời" Bà Đống về làng. Hai cô gái khiêng chiếc trống lớn đi trước, một cô đi theo đánh trống. Tiếp theo là hai cô khênh chiêng và một cô đánh chiêng. Chiếc kiệu rước Bà Đống làm bằng tre, được trang trí đẹp, do bốn cô gái khiêng đi theo sau.
Khi nghe tiếng trống, tiếng chiêng, các chàng trai làng Đống Cao chạy ra giằng lấy kiệu thần, ném những chiếc đòn vào các cô gái. Đó là lễ "lao đòn đám". Người ta tin rằng, đòn đâm trúng ai người đó trong năm gặp nhiều may mắn. Các cô gái phải bảo vệ kiệu thần, đưa ra khỏi làng Đống Cao. Khi kiệu Bà Đống rước đến chùa Nhồi thì trời cũng vừa rạng sáng. Mọi người làm lễ đưa Bà Đống vào chùa. Các cô gái quỳ trước bàn thờ Phật, lễ Phật và nữ thần Bà Đống, trong khi nhà sư gõ mõ tụng kinh. Các ca sĩ quan họ ngồi trên các chiếc chiếu trải ở thềm và sân chùa, hát lên những bài hát xưng tụng công đức của Phật và Bà Đống.
Khách quan họ ở làng khác đến cũng được mời vào chùa lễ Phật. Lễ xong, khách và chủ đều hát. Đến tối, các cô gái lễ Phật và hội hát bắt đầu giữa nam và nữ ở các nhà cho đến khuya(15).
Làng Bùi, một làng quan họ khác, tổ chức hội chùa vào ngày 28 tháng giêng Âm lịch. Một trong nghi lễ quan trọng của hội là lễ tắm Phật ở chùa. Nhưng nước dùng để tắm Phật lại phải lấy ở giếng tại đền thờ Mẫu, tức nữ thần Mẹ, nằm trên bãi giữa dòng sông Ngũ Huyện. Vì vậy, phải làm lễ rước nước từ đền Mẫu về chùa. Trên một chiếc thuyền rồng, đặt một đôi chum lớn. Mười cô gái tân ăn mặc lễ phục ngày hội chèo chiếc thuyền rồng ra đền Mẫu giữa bãi, theo nhịp trống của một cụ già. Và trên nhiều chiếc thuyền khác, từng đôi trai gái ngồi quay mặt vào nhau, vừa bơi thuyền vừa hát quan họ. Khi thuyền rồng ra tới đền Mẫu, đôi chum được khiêng đặt gần bờ giếng. Trai gái quan họ đứng thành hai hàng, và người đứng đầu hàng cầm gáo đồng múc nước. Gáo nước được chuyển từ người này qua người kia và người cuối cùng đổ nước vào chum, trong tiếng hát quan họ. Khi các chum đã lấy đầy nước, người ta khiêng lên thuyền rồng, chèo trở lại bờ và đưa về chùa để tắm Phật.
Sau đó, đám thuyền chở trai gái quan họ bơi quanh bãi giữa sông, cùng hát với nhau.
Ở chùa, sau khi lễ Phật xong, mọi người tụng kinh và kể hạnh. Kể hạnh ở đây cũng theo làn điệu quan họ. Khách thập phương cũng ngồi trong chiếu hát quan họ hầu Phật trước cửa chùa. Trai gái cũng tụ tập quanh chùa hoặc các nhà để hát(16).
Hội làng Bùi khác hội làng Nhồi ở chỗ có hát quan họ trên thuyền. Nhưng qua hội chùa của hai làng quan họ này, ta thấy sự gắn kết Phật giáo với tín ngưỡng nữ thần, ở Nhồi là Bà Đống và ở Bùi là thần Mẫu. Và cả ở hai nơi, đều có các vết tích của các nghi lễ nông nghiệp, như lễ lao đòn - một hình thức của lễ phồn thực - ở Nhồi và lễ rước nước ở Bùi. Và diễn xướng quan họ được tổ chức trong không khí của tất cả các tín ngưỡng đó. Vì vậy, coi hát quan họ là bắt nguồn từ hát giao duyên, hát đối giữa nam và nữ, trong nghi lễ cầu mùa, không phải là không có lý.
Ngày hội Lim, một hội quan họ lớn nổi tiếng nhất ở vùng Bắc Ninh, cũng được tổ chức vào ngày hội chùa Lim, 13 tháng giêng. Và theo truyền thuyết, chùa Lim là nơi có một người phụ nữ tên là Bà Mụ A, người làng Duệ Đông đến tu hành. Khi đắc đạo, bà trở thành vị thần có tài gọi gió, làm mưa, giúp dân vào những khi hạn hán(17). Như vậy, ở đây ta cũng lại gặp cái chuỗi: Phật giáo - tục thờ nữ thần - lễ cầu mưa cho mùa màng - hát quan họ.
Ở một số nơi, hát chèo, một hình thức diễn xướng dân gian khác, cũng gắn liền với Phật giáo. Truyện Quan Âm Thị Kính đã được soạn thành một vở chèo nổi tiếng, với cảnh Thị Mầu lên chùa gây ấn tượng.
Sân khấu múa rối nước, một loại hình múa rối độc đáo của người Việt Nam, cũng đã được trình diễn trong nhiều hội chùa. Ở trên, ta thấy cảnh rối nước cạnh đám rước hội chùa Keo (tỉnh Thái Bình). Trước mặt chùa Thầy (Hà Nội) cũng có một thủy đình giữa hồ Long Chiểu để biểu diễn múa rối nước. Thậm chí, ở chùa Thầy, tượng của nhà sư Từ Đạo Hạnh cũng làm theo kiểu con rối, có thể cử động được.
Những điều trình bày trên phần nào đã cho chúng ta thấy vị trí của ngôi chùa Việt Nam trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Vị trí đó rõ ràng đã có nguồn gốc từ lâu đời(18).
Nhưng qua dặm dài lịch sử, ngôi chùa Việt Nam cũng đã từng đóng những vai trò mà ngày nay không còn nữa hoặc đã mờ nhạt.
Có người cho rằng, trước khi ngôi đình xuất hiện vào thời Lê, thì ngôi chùa làng còn làm cả chức năng của ngôi đình. Theo lời kể của các cụ già làng Dũng Nhuệ, nơi có ngôi chùa Keo, thì xưa kia, tòa "giá roi" của ngôi chùa này đã được sử dụng như một trung tâm hành chính, ở đây người ta đã họp hành, xử kiện, phạt vạ... Nhưng đó là trường hợp riêng của chùa Keo hay là chung cho nhiều chùa khác? Chưa thể biết được.
Điều chắc chắn hơn là ngôi chùa làng đã có thời làm vai trò của một trường học. Ở đó, không phải chỉ có sự truyền thụ giáo lý Phật giáo giữa các thế hệ sư tăng, mà ngay cả trẻ em trong làng cũng đến chùa để kiếm dăm ba chữ vỡ lòng. Nhà sư bấy giờ không khác mấy thầy giáo trường làng. Có cả những hàn sĩ đến trọ học ở chùa.
Và ngôi chùa, trong nhiều trường hợp, đã làm chức năng của một bệnh viện. Một bi ký thế kỷ XIV trên vách núi Non Nước (tỉnh Ninh Bình) cho biết ngôi chùa ở đây đã có một loại ruộng gọi là "bệnh điền" (có nghĩa là "ruộng chữa bệnh"), thu hoạch ở loại ruộng này hẳn là được chi dùng cho việc chữa bệnh cho dân. Trên núi Yên Tử, vẫn còn những di tích được coi là nơi chế biến dược liệu của các nhà sư xưa kia.
Trong nhiều vườn chùa, bên cạnh cây ăn quả, cây cảnh, người ta còn trồng các cây thuốc. Có các nhà sư đã trở nên những thầy thuốc giỏi. Nổi tiếng nhất là nhà sư Tuệ Tĩnh(19), tác giả sách Nam dược thần diệu, ghi lại những bài thuốc hiệu nghiệm, dùng toàn dược liệu cây cỏ Việt Nam. Ván in một số sách của ông cũng được cất giữ trong các chùa. Ngày nay, trong các chùa Việt Nam, đang phổ biến việc xây dựng Tuệ Tĩnh đường (ngôi nhà mang tên sư Tuệ Tĩnh) để làm nơi chữa bệnh cho nhân dân. Bằng cách đó, người ta đã phục hồi một chức năng vốn có của ngôi chùa Việt Nam giữa cộng đồng.
Cách đây gần hai nghìn năm, đối với đất nước này, Phật giáo là một tôn giáo - và cũng là một văn hóa - ngoại lai. Nhưng người Việt Nam đã đón nhận nó một cách cởi mở.
Thứ tôn giáo - văn hóa đó, có nguồn gốc Ấn Độ, và sau đó, là Trung Quốc, đã không làm hòa tan nền văn hóa bản địa, mà chỉ làm cho nó thêm phong phú. Sức sáng tạo và trí tưởng tượng của dân tộc này dường như được kích thích phát triển trong sự tiếp biến văn hóa (acculturation) có lợi này.
Đó là một trong những bài học quý giá mà tổ tiên chúng ta đã để lại. Và đó cũng là điều chúng ta phải suy ngẫm hôm nay.
Không thể co mình lại, không đón nhận các ảnh hưởng bên ngoài, vì làm như vậy là đánh mất sức sống của văn hóa.
Nhưng cũng không thể hòa tan, làm mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngôi chùa Việt Nam trong nền văn hóa cộng đồng vẫn là một thực thể sống động trước mắt giúp cho chúng ta rất nhiều trong việc nhận thức bản sắc văn hóa Việt Nam.


Hà Nội, Xuân Nhâm Thân – 1992

Đình Đỗ Xá





Ứng Hòe nhìn từ vệ tinh




Còn mãi niềm tự hào văn hóa xứ Đông







Nói đến Hải Dương, nhiều người thường gọi với cái tên xứ Ðông, bởi nơi đây vốn là trấn phên dậu phía Ðông của kinh thành Thăng Long xưa. Có thể khẳng định rằng, truyền thống văn hiến từ ngàn xưa chính là niềm tự hào, đồng thời là cội nguồn tạo nên sức sống mãnh liệt, sức bật mạnh mẽ của mảnh đất này trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay.

Trầm tích văn hoá từ những di tích

Mảnh đất Hải Dương hiện đang lưu giữ khối lượng lớn văn hoá vật thể và phi vật thể đa dạng, độc đáo với 1.098 di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng. Từ những dấu ấn thời kỳ đồ đá cũ có niên đại trên 3 vạn năm ở hang Thánh Hoá, núi Nhẫm Dương, đến những di chỉ, di vật có giá trị của thời đại đồ Ðồng tại Ðồi Thông (Kinh Môn), Hữu Chung (Tứ Kỳ), làng Gọp (Thanh Hà),... Văn hoá Lý, Trần, Lê, Nguyễn là dòng chảy liên tục và rực sáng trên vùng đất này, đã tạo nên một không gian văn hoá đặc biệt - nơi kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với chiều sâu lịch sử và tâm linh với 127 di tích được xếp hạng quốc gia mà tiêu biểu là Côn Sơn - Kiếp Bạc, Phượng Hoàng (Chí Linh). Chỉ trong một không gian chừng 5 km2 đã có hàng chục di tích lưu giữ những kỷ niệm về 3 danh nhân vĩ đại của đất nước và thế giới. Ðó là Trần Hưng Ðạo - danh nhân quân sự, Nguyễn Trãi - danh nhân văn hoá, Chu Văn An - "người thầy của muôn đời"; cùng An Phụ, Kính Chủ (Kinh Môn) đã trở thành những huyền thoại của non sông đất Việt. 

Văn hoá - Nhìn từ những lễ hội truyền thống

Giá trị đặc trưng của văn hoá xứ Ðông được thể hiện qua các lễ hội truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống của cộng đồng dân cư Hải Dương xưa và nay. Ngay từ ngày mùng 1 Tết Nguyên Ðán, chùa Ðồng Ngọ (Thanh Hà) đã mở hội đánh chuông. Ðây là lễ hội mở đầu cho các lễ hội mùa xuân của tỉnh. Tháng Tám - mùa thu, lễ hội đền Kiếp Bạc (Chí Linh) là một trong những lễ hội lớn nhất của cả nước. Ðến với lễ hội xứ Ðông, quý khách sẽ được tham dự các đám rước lớn, các trò chơi dân gian đặc sắc: trò thuỷ chiến - lễ hội đền Kiếp Bạc; bơi trải - lễ hội đền Quát, đánh gậy - lễ hội đền Cuối (Gia Lộc); hát chầu văn (Ninh Giang); trò đánh bệt - lễ hội đền Sượt (thành phố Hải Dương); thi nấu cơm - lễ hội chùa Hào Xá (Thanh Hà); đu tiên, leo núi, du xuân - lễ hội Côn Sơn,... Với 566 lễ hội được khôi phục, lễ hội xứ Ðông mang đậm yếu tố lịch sử, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo, cầu mong quốc thái dân an, mùa màng tươi tốt, đời sống ấm no, ngợi ca những bậc tiền nhân, anh hùng dân tộc có công với dân với nước, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, hướng đến sự cao đẹp. 

Cùng với những lễ hội dân gian, xứ Ðông còn nổi tiếng là một trong những cái nôi của nghề thuật hát chèo của vùng Ðồng bằng Bắc Bộ. "Chiếng chèo Ðông" với những nghệ nhân tên tuổi như: Phạm Thị Trân, Trùm Thịnh, Trùm Bông, cố nghệ sĩ nhân dân Trịnh Thị Lan, Minh Lý,... có công lao to lớn trong việc xây dựng và phát triển nghệ thuật hát chèo Việt Nam.

Ngoài bộ môn hát chèo, xứ Ðông còn lưu giữ nhiều loại hình văn nghệ dân gian như: nghệ thuật tuồng, múa rối nước, xiếc, hát ca trù, hát trống quân, hát đối, hát ru, ca dao, tục ngữ. Vốn văn hóa truyền thống phong phú ấy đã bộc lộ những nét nhuần nhị, trữ tình, lạc quan, đầy lãng mạn trong tính cách của người xứ Ðông.

Văn hoá - Nhìn từ những sản vật truyền thống

Văn hoá xứ Ðông được hình thành, đi lên bằng sức lao động cần cù, sáng tạo của con người trên mảnh đất này. Người Hải Dương không những giỏi làm ra hạt lúa, hạt đậu, hoa thơm trái ngọt như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vải thiều (Thanh Hà); dưa hấu (Gia Lộc); na dai, chuối mật (Chí Linh), mà còn biết chế biến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong và ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn, nem chua (thành phố Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cẩm Giàng), giò chả (Gia Lộc), mắm rươi, chả (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà),...

Không những thế, Hải Dương còn là quê hương của nhiều làng nghề truyền thống danh tiếng như chạm khắc đá Kính Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ Ðông Giao (Cẩm Giàng), kim hoàn Châu Khê, gốm Cậy (Bình Giang), gốm Chu Ðậu (Nam Sách), khắc ván in Hồng Lục - Liễu Tràng (Gia Lộc), thêu Xuân Nẻo (Tứ Kỳ), dệt chiếu Tiên Kiều (Thanh Hà). Những sản phẩm từ các làng nghề truyền thống này thể hiện sự sáng tạo khéo léo, tài hoa của người xứ Ðông.

Nhìn từ góc độ chủ thể sáng tạo văn hóa

Văn hoá xứ Ðông rực sáng bởi được hình thành, tạo dựng từ truyền thống yêu nước, kiên trung, cách mạng của con người Hải Dương. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất và người Hải Dương đã góp phần làm nên những mốc son lịch sử vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với các nhân vật lịch sử nổi tiếng như các nữ tướng Thiện Nhân, Thiện Khánh; Khúc Thừa Dụ, Yết Kiêu, Trần Khắc Chung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Chế Nghĩa, Ngô Bệ, Ðinh Văn Tả, Nguyễn Hữu Cầu, Ðốc Tít, Ðỗ Quang, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Lương Bằng,... Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, có trên 30 vạn thanh niên Hải Dương tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. 38.295 người con ưu tú của Hải Dương đã hy sinh, toàn tỉnh ghi danh 1.658 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Nhân dân và đất nước đời đời ghi công ơn họ. Họ là những tấm gương cho các thế hệ hôm nay trong bài học về chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Hải Dương còn là đất học, đất khoa bảng. Hải Dương đứng đầu về tiến sĩ nho học của cả nước với 472 người, trong đó có 11 trạng nguyên. Làng Mộ Trạch, huyện Bình Giang được tôn phong là "Làng tiến sĩ" với 39 tiến sĩ dưới các triều đại phong kiến. Văn Miếu Mao Ðiền (Cẩm Giàng) - Văn Miếu trấn Hải Dương xưa là một minh chứng cho truyền thống hiếu học của người xứ Ðông. Nhiều tiến sĩ nho học của Hải Dương là những tác giả nổi tiếng, để lại cho ngày nay hàng trăm tác phẩm có giá trị trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, văn học, ngoại giao như: Tuệ Tĩnh, Mạc Ðĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Vũ Hữu, Nguyễn Dữ,... Ðặc biệt là Nguyễn Thị Duệ - nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.

Những người con của Hải Dương nay - xứ Ðông xưa luôn tự hào về những truyền thống văn hoá tốt đẹp của mảnh đất "địa linh, nhân kiệt", nơi "ánh mặt trời tỏa sáng miền duyên hải" này và đang nỗ lực kế thừa, phát huy những truyền thống đó trong cuộc sống hôm nay.




Hiền tài xứ Đông

Hải Dương là vùng đất đã sinh dưỡng và hội tụ nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng. Ðó là những nhà quân sự, chính trị, ngoại giao, những nhà văn hoá, nhà khoa học, những vị tổ nghề được nhân dân cả nước ca tụng, tôn thờ. Dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu một số danh nhân tiêu biểu có cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với mảnh đất Hải Dương. 


Trần Quốc Tuấn (1226 - 1300) 


Là con An Sinh Vương Trần Liễu, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc - Nam Ðịnh. 


Trần Quốc Tuấn là chủ soái của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thời Trần. Năm 1258, ông chặn đánh giặc Nguyên ở biên giới, góp phần quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất. Tháng 6-1285, ông cầm quân giao chiến tại Vạn Kiếp (hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang thời Trần; nay thuộc xã Hưng Ðạo, huyện Chí Linh, Hải Dương), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai. Tháng 8-1288, dưới sự lãnh đạo thiên tài của Trần Quốc Tuấn, quân dân nhà Trần đã làm nên chiến thắng trên sông Bạch Ðằng nổi tiếng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba. Ðội quân vô cùng hung hãn, từng tung vó ngựa xâm lược khắp từ châu Âu sang châu á phải cúi đầu bại trận trước khí thế anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. 


Tháng 4-1289, ông được phong là Quốc công tiết chế Hưng Ðạo Ðại Vương và lập đền thờ (gọi là Sinh Từ) ở Vạn Kiếp. Cuối đời, ông về sống ở Vạn Kiếp và mất tại đó vào ngày 3-9-1300. Ông được vua phong là "Thái sư, Thượng phụ, Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Ðạo Ðại Vương", nhân dân tôn xưng ông là Ðức Thánh Trần. Những chiến công oanh liệt của Trần Hưng Ðạo mãi mãi lưu dấu trong sử sách, tên tuổi ông gắn liền với những địa danh nổi tiếng: Vạn Kiếp, Bạch Ðằng. Trần Quốc Tuấn đã phát huy cao độ truyền thống giữ nước của dân tộc, cùng với triều đình phát động thành công cuộc chiến tranh toàn dân, đánh bại đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới cùng những tướng lĩnh sừng sỏ lúc đó, đè bẹp ý chí xâm lược của quân thù. Gần nửa thế kỷ chỉ huy quân đội, thiên tài quân sự của ông được khẳng định trên hai lĩnh vực: lý luận và thực tiễn. Ông là người nắm vững tri thức quân sự đương thời, có tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Trên cơ sở kế thừa tinh hoa quân sự của các triều đại trước cùng những kinh nghiệm đúc rút từ những năm tháng cầm quân đánh giặc, ông đã chấp bút lưu lại cho đời sau những thiên sách quý báu như Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ,... 


Ðền Kiếp Bạc thuộc xã Hưng Ðạo (Chí Linh) là khu tưởng niệm lớn của cả nước, di tích lịch sử được xếp hạng đặc biệt quan trọng, hàng năm, nhân dân khắp nơi trong nước về dự hội đền từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch. 


Mạc Ðĩnh Chi (1272 - 1346) 


Tự là Tiết Phu, người làng Lũng Ðộng, huyện Chí Linh (nay là xã Nam Tân, Nam Sách). Ông thông minh hơn người song vóc dáng nhỏ bé, tướng mạo xấu xí. Khi mới đỗ Trạng nguyên năm 1304, Trần Nhân Tông chê ông xấu, ông làm bài phú "Ngọc tỉnh liên", tự ví mình với bông hoa sen. Vua khen hay và cất nhắc làm Thái học sinh dũng thư, sung chức Nội gia thư. Năm 1308, ông được cử đi sứ nhà Nguyên. Nhiều giai thoại còn truyền lại về tài ứng đối và biện luận của ông trong dịp đi sứ này. 


Mạc Ðĩnh Chi ra mắt vua Nguyên cùng với sứ Cao Ly. Nhân có sứ thần ngoại quốc dâng chiếc quạt, vua Nguyên yêu cầu Mạc Ðĩnh Chi và sứ Cao Ly làm thơ đề quạt. Mạc Ðĩnh Chi xong trước, vua Nguyên xem xong gật gù khen và phê vào 4 chữ "Lưỡng quốc trạng nguyên". 


Mạc Ðĩnh Chi là một trong những kỳ tài trong nền văn học nước ta. Cuộc đời, sự nghiệp cùng với những câu chuyện giàu chất truyền thuyết về ông được nhân dân ta truyền tụng, giữ gìn. Ông làm quan trải 3 triều vua, được thăng tới chức Tả bộc xạ Nhập nội hành khiển. 


Tính ông ngay thẳng liêm khiết, được người đương thời trọng vọng, khâm phục. Sau khi trở về quê, ông mở trường dạy học. Nơi ông dạy học được nhân dân trong vùng gọi là "Trạng nguyên cổ đường" (Ngôi nhà xưa của quan trạng). Ông là đại biểu cho sự thanh cao của nho sĩ đương thời. 


Chu Văn An (1292 - 1370) 


Hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì - Hà Nội. Ông thi đậu Thái Học sinh (Tiến sĩ), từng làm Tư nghiệp Quốc tử giám. Ðời Trần Dụ Tông, ông dâng sớ xin vua chém 7 tên nịnh thần (người đời gọi là Thất trảm sớ) song không được chấp thuận nên ông đã từ quan. Noi gương thầy, các học trò của ông nhiều người đỗ đạt cao song vẫn giữ đức thanh liêm mẫu mực. 


Sau khi rời bỏ chốn quan trường, Chu Văn An đến núi Phượng Hoàng, xã Kiệt Ðặc (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh) dựng nhà dạy học, làm thuốc chữa bệnh, làm thơ, viết sách và tự đặt tên là Tiều ẩn. Tuy vậy, mỗi khi triều đình có đại sự đều mời ông tham dự. Sau khi mất, ông được truy tặng tước Văn Trình Công và được thờ tại Văn Miếu - Quốc tử giám. Ông còn để lại nhiều thi tập có giá trị như: Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước,... 


Nguyễn Bá Tĩnh (1330-1400) 


Nguyễn Bá Tĩnh, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh Thiền Sư, biệt hiệu: Hồng Nghĩa, người làng Nghĩa Phú - tổng Văn Thai - Cẩm Giàng, nay là xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng. 


Năm Tân Mão (năm 1351), ở tuổi 22, ông đỗ Hoàng giáp, được phong chức Bình Tây tướng quân. Nửa cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy yếu, chính sự rối ren, ông từ quan, đi chu du thiên hạ làm nghề thuốc cứu giúp dân lành. Quan điểm của ông là "Thuốc Nam Việt trị bệnh người Nam Việt". Ông sử dụng cây cỏ nước Nam để chữa bệnh, dùng các bài thuốc và phương pháp điều trị được lưu truyền trong dân gian như: chườm, châm cứu, xoa bóp,... 


ông được cử đi sứ nhà Minh năm Giáp Tý (năm 1384). ở Trung Quốc, ông chữa khỏi bệnh cho vợ vua và được phong là "Ðại y Thiền sư". Thấy ông giỏi y thuật, vua Minh giữ lại không cho về. Tại đây, ông vẫn làm thuốc và viết sách. Ngày 15-2-1400, ông mất tại Giang Nam, Trung Quốc. Tương truyền, trên mộ chí, mặt sau bia đá có khắc lời nhắn: "Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với". 


Thiền sư Tuệ Tĩnh được giới y học và nhân dân tôn là Y Thánh, lập miếu thờ tại Hà Nội. Suốt đời cống hiến cho sự nghiệp y học, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Bộ sách "Nam Dược thần hiệu" của ông giới thiệu 580 vị thuốc Nam và 3.873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Tuệ Tĩnh là người có công đặt nền móng xây dựng y học dân tộc thưở sơ khai. 


Tại Cẩm Giàng ngày nay còn một số di tích về Tuệ Tĩnh như đền Xưa, đền Bia, chùa Giám. Năm 1973 chùa Giám, nơi Tuệ Tĩnh ở lúc sinh thời, được chuyển vào trong đê để tránh lũ lụt, cách di tích cũ 8 km. Năm 1989, chùa Giám được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Hàng năm, vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, nhân dân vẫn mở hội tưởng niệm ông. 


Nguyễn Trãi (1380 - 1442) 


Hiệu là ức Trai. Tổ tiên ông vốn ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhỡn, nay là xã Cộng Hoà, Chí Linh. Cha ông là Nguyễn Ứng Long thiên cư về làng Nhị Khê (tên cũ là làng Ngọc Ổi) huyện Thường Tín - Hà Tây. Mẹ là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Ðán, Tể tướng nhà Trần. 


Lúc trẻ, tài văn chương của Nguyễn Trãi đã nức tiếng gần xa, kinh, sử, bách gia, bình thư thao lược đều am hiểu cả. Năm 20 tuổi, ông đỗ Thái Học sinh. Hai cha con cùng làm quan, ông giữ chức Chính trưởng đài ngự sử. 


Năm 1407, nhà Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh - thân phụ của ông bị bắt giải về Kim Lăng, Trung Quốc. Nguyễn Trãi theo cha đến ải Nam Quan. Theo lời dạy của cha: "Hãy trở về tìm kế cứu nước, trả thù cho cha", Nguyễn Trãi đã gạt nước mắt quay về. Trên đường trở về, không may ông sa vào tay giặc và bị giam lỏng ở Ðông Quan (Hà Nội). 


Ðời vua Lê Thái Tông, nịnh thần đầy rẫy, ông từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1442, vua lại vời về triều, ông làm chính giám thị kỳ thi tiến sĩ. Ðúng lúc đó, nhân vụ án Lệ Chi Viên, bọn gian thần kiếm cớ buộc tội ông chủ mưu giết vua và kết án chu di tam tộc. Ông mất ngày 19-9-1442. Ðời Lê Thánh Tông, năm 1464, ông được vua minh oan và truy phong tước cũ. 


Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, là thiên tài trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn học,... Ông để lại nhiều tác phẩm như ức Trai Dư địa chí, ức Trai Thi tập, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn Thực lục,... Ghi nhận những đóng góp xuất sắc của Nguyễn Trãi đối với sự phát triển của dân tộc Việt Nam và sự phát triển những giá trị nhân văn nhân loại, năm 1980, tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã phong ông là danh nhân văn hoá thế giới. 


Nguyễn Thị Duệ (1574- ?) 


Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du; hiệu là Diệu Huyền, tự là Tinh Phi. Nguyễn Thị Duệ người làng Kiệt Ðặc (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh). Bà là người tuyệt sắc, lại thông minh. Cụ thân sinh ra bà tiếc tài con gái, đồng ý cho bà cải trang nam giới đi học và ứng thi. 


Lịch sử ghi lại rằng: Nhà Mạc mở khoa thi Hội, bà đỗ đầu. Khi mở tiệc đãi các tân khoa, vua Mạc phát hiện sự giả mạo trên, song không phạt mà còn nạp cung, phong làm Tinh Phi, ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như vì sao. Thời chúa Trịnh, bà giữ chức Lễ Sư dạy dỗ trong Vương phủ. Nguyễn Thị Duệ nổi tiếng là người có tri thức uyên thâm, văn chương xuất chúng, sống vị tha và đặc biệt quan tâm đến giáo dục. Những kỳ thi hội, thi đình bà đều được xem lại văn bài của những người đỗ đạt. Bà có công lớn trong việc giúp đỡ lớp sĩ tử tại Chí Linh. 


Bên cạnh mộ bà (thuộc núi Từ Ngư, làng Kiệt Ðặc), nhà Nguyễn đã cho xây dựng Tinh Phi cổ tháp, được liệt vào hạng "Chí Linh bát cổ". 


Nguyễn Lương Bằng (1904 - 1979) 


Nguyễn Lương Bằng sinh ra trong một gia đình nghèo tại xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, lớn lên làm công nhân tàu biển, gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu - Trung Quốc. Cuối năm 1926, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được phái về nước hoạt động. Năm 1929, Nguyễn Lương Bằng sang Trung Quốc nhận nhiệm vụ giao thông liên lạc giữa Quảng Châu với Hồng Kông; tuyên truyền vận động binh lính Pháp, Việt kiều và một số công nhân nhà máy Dieden đấu tranh. 


Ngày 31-5-1931, mật thám Anh theo dõi và bắt đồng chí ở Quảng Châu - Trung Quốc. Ðầu năm 1932, chúng đưa đồng chí về Sở Mật thám Hải Dương. Khoảng tháng 8-1932, chúng đưa đồng chí về nhà giam Hoả Lò, Hà Nội. 


Ðêm 24-12-1934, đồng chí Nguyễn Lương Bằng vượt ngục trở về Hải Dương. Tại ấp Dọn (xã Thái Dương, huyện Bình Giang), đồng chí viết báo và ra tờ báo lấy tên là "Công Nông". ở Hải Dương được ít ngày, đồng chí bị địch bắt trong chuyến đi liên lạc với cấp trên. 


Năm 1944, sau khi vượt ngục Sơn La, Nguyễn Lương Bằng được chỉ định là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, phụ trách tài chính và binh vận, là Bộ trưởng Bộ Tài chính của Tổng bộ Việt Minh. Nguyễn Lương Bằng đã đảm nhiệm các chức vụ Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Liên Xô, Tổng thanh tra của Chính phủ, Phó Chủ tịch nước. ở bất kỳ cương vị công tác nào, đồng chí Nguyễn Lương Bằng cũng luôn là tấm gương sáng về đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tác phong cần cù, giản dị. 


Lê Thanh Nghị (1911 - 1989) 


Tên thật là Nguyễn Khắc Xứng, thuộc dòng dõi nho học tại làng Thượng Cốc, xã Gia Khánh, huyện Gia Lộc. Từ năm 16 tuổi, Lê Thanh Nghị đã làm công nhân tại Hải Phòng, Quảng Ninh. Tham gia phong trào công nhân vùng mỏ, đồng chí được kết nạp Ðảng năm 1929. Bị địch bắt, Lê Thanh Nghị bị kết án tù chung thân và bị đầy ra Côn Ðảo. Năm 1936, chính phủ của Mặt trận bình dân Pháp lên cầm quyền tại Pháp, Lê Thanh Nghị ở trong số tù chính trị được ân xá. Cuối năm 1937, cấp trên cử đồng chí về Hải Dương và trực tiếp vào làm việc ở Nhà máy Nước Ninh Giang. Giữa năm 1938, tại nhà đồng chí Hiểu, số 14 phố Chợ Tây, thị xã Hải Dương, đồng chí Lê Thanh Nghị đã triệu tập cuộc họp gồm đại biểu các huyện, thị xã để bầu ra Ban lãnh đạo Ðoàn Thanh niên Dân chủ. Tháng 8-1938, được sự đồng ý của đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Lê Thanh Nghị đã thành lập chi bộ Ðảng Cộng sản Nhà máy Nước Ninh Giang gồm 4 người, do đồng chí trực tiếp làm bí thư. 


Sau năm 1954, đồng chí Lê Thanh Nghị giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp. Nhiều năm đồng chí là Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước. Từ năm 1982 đến năm 1987, đồng chí Lê Thanh Nghị giữ cương vị Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Nhà nước. 


Ðây chỉ là 8 trong số hàng trăm người con ưu tú của dân tộc đã ghi dấu sự nghiệp của mình trên đất Hải Dương. Người dân Hải Dương còn tự hào là hậu duệ của những danh nhân như Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hữu Cầu,... "Người là hoa của đất", tên tuổi của những người đức rộng, tài cao, những người có công với dân với nước vẫn lưu danh muôn thuở, luôn là niềm tự hào, là tấm gương cho con cháu noi theo. 







Địa chí huyện Ninh Giang

Bánh gai  Ninh Giang
Huyện Ninh Giang 
  Diện tích: 135,4 km2
Dân số: 146.780 người
Đơn vị hành chínhHuyện có 01 Thị trấn và 27 xã
Thị trấn: Ninh Giang
Các xã: Hiệp Lực, Hồng Dụ, Vĩnh Hoà, Tân Hương, Quyết Thắng, Ninh Hoà, Hồng Đức, Đông Xuyên, Hồng Phong, Tân Phong, Hưng Long, Văn Hội, Quang Hưng, Hồng Thái, Đồng Tâm, Ninh Thành, Nghĩa An, Ứng Hoè, Vạn Phúc, An Đức, Ninh Hải, Kiến Quốc, Hồng Phúc, Hưng Thái, Tân Quang, Hoàng Hanh, Văn Giang
Vị trí địa lý
Ninh Giang là một huyện phía Đông Nam của tỉnh, nằm bên bờ sông Luộc và tiếp giáp với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng vị trí khoảng 20o 43’vĩ Bắc,106o 24’ kinh Đông. Ninh Giang phía Nam giáp xã Thắng Thủy (Hải Phòng) bằng con sông Luộc , phía Bắc giáp xã Đồng Tâm, Tây Giáp xã Hiệp Lực( xã em đó :) ) phía Tây Nam giáp xã An Khê, phía Đông Giáp xã Hà Kỳ. Theo đường bộ Ninh Giang cách thành phố Hải Dương 29km, Hà Nội 87 km. Về đường bộ tiếp giáp và có các con đường chạy qua 17A, 17B, 217
-Đi Hải Dương - Vĩnh Bảo bằng đường 17A
-Đi Quí Cao- Hải Phòng bằng đường 17B
-Đi Quỳnh Phụ Thái Bình bằng đường 217
-Đi Hưng Yên bằng tuyến sông Luộc
Ninh Giang cách biển 25km( đường chim bay) Thời tiết khí hậy như Hải Phòng và Thái Bình
     
                                   Bánh lá gai - một trong những đặc sản nổi tiếng của huyện Ninh Giang
Sự kiện và con người
Vùng đất Ninh Giang xưa trong một số bộ sử và tiểu thuyết đã nhắc tới. Mỗi thời kỳ với những tên gọi khác nhau, được nhắc tới nhiều nhất là Hồng Châu, Hạ Hồng, Vĩnh Lại.
Kết quả khảo sát và khảo cổ học năm 1982 ở huyện Quỳnh Phụ ( Thái Bình) giáp với Ninh Giang qua sông Luộc, phát hiện thấy phế tích mộ đời Hán. Công trình trên kết luận: vùng đất Quỳnh Phụ ít ra trước kia cũng có dân cư trước Công nguyên, cư dân từ trung du ( Vĩnh Phú,Tuyên Quang) hoặc Biển( Thanh Hóa –Nghệ An) đến lập nghiệp ở đây. Ninh Giang xa biển hơn Quỳnh Phụ, đất bồi tụ trước quỳnh Phụ vì vậy mà sẽ có dân cư trước Quỳnh Phụ. Như vậy muộn nhất cư dân Ninh Giang cũng phái có trước Công nguyên ( tức hơn 2000 năm ).
-Năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩ. Nhà Hán cử Mã viện sang đàn áp. Tại cùng Hạ Hồng dã chứng kiến cuộc giao tranh giữa 2 bên. Phá vây ở Hạ Hồng Hai Bà chạy về Thạch Bàn. Đô Lượng 1 tướng giỏi của Hai Bà Trưng có cứ quân đóng ở Hiệp Lực( Ngã ba sông Hóa).
Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đất nước lại trải qua 1000 năm Bắc thuộc. -Vào thế kỷ thứ X, tương truyền rằng có một người ở làng Cúc Bồ( nay là xã Kiến Quốc) là Khúc T Thừa Dụ đã chiêu binh mã nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc. Trong lịch Triều hiến chương loại chí có ghi:
-“Cuối đời Đường thổ hào là Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu chiếm lấy cứ thành tự xưng là Tiết Độ Sứ.. rồi đến cháu là Khúc Thừa Mỹ nối chức, yêu cầu nhà Lương cho làm Tiết Độ Sứ. Khi ấy nhà Nam Hải chiếm đất Phiên Ngung, đem quân đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ , rồi đặt Thứ Sử. viên tướng của Khúc là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh châu thành, tự xưng là Tiết Độ Sứ, sau bị nha tướng là Kiều Công Tiến giết chết. Khi ấy có một biệt tướng của Diên Nghệ giết Tiến, đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, tự xưng là vua đóng đô ở Loa thành( Cổ Loa ngày nay)
-Vào thế kỷ thứ XV sau cuộc bảo vệ đất nước của nhà Hồ thất bại nước ta bị ách thống trị của Nhà Minh -Trong thời kỳ này sử còn ghi lại một sự kiện:Vào mùa xuân năm 1418 Lê Lợi dấy binh ở Thanh Hóa thì 1419 tại châu Hạ Hồng, Trịnh Công Chứng và Lê Hành dấy quân đánh Tống binh Lý Bân của nhà Minh ở vùng Bắc
Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập nên một vương triều phong kiến cực thịnh ở Việt Nam. Ở thời điểm đó Ninh Giang chứng kiến sự kiện lạ, sử cũ ghi: “Mùa hạ, tháng tư năm 1443, có rồng hiện ở bến đò Hóa( huyện Vĩnh Lại)”
-Đầu thế kỳ thứ XVI nhà Lê bước vào thời suy vong Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê , trong nước diễn ra nhiều cuộc chiến một bên là Chúa Trịnh( dưới danh nghĩa Phù Lê) và một bên là Mạc. Đây là thờ kỳ nội chiến kéo dài, chiến tranh xảy ra liên miên. Ninh Giang nằm trong vùng chiến ác liệt. Tháng 2/1959 sau khi thu phục xứ Hải Dương Trịnh Tùng sai quân đến xã Thanh Giang( huyện Vĩnh Lại) đóng quân vài hôm rồi về kinh.
-Năm 1594 phủ Hạ Hồng có nhiều quân cát cứ chống Trịnh Tùng. Tháng 7 năm ấy Mạc Kính Chương chiếm huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ, còn huyện Vĩnh Lại có Lai Quận Công. Những năm ấy xứ Hải Dương mất mùa to, chết đói 1/3.
-Năm 1595 Trịnh Tùng cử Trịnh Văn chương về trấn giữ huyện Vĩnh Lại. Năm 1598 Nguyễn Hoàng lại được cử về xứ Hải Dương dẹp quân chống đối. Thời Lê Trung Hưng vào năm 1740 có nhiều cuộc nôit dậy chống nhà Chúa: Thái Bình có Công Chất, Nam Hà có Tú Cao, Vĩnh Phú có Nguyễn Danh Phương và Hải Dương có Hữu Cầu( Quận He), Ninh Giang là một trong những địa bàn hoạt động của Quận He. Tại đất Tranh Xuyên có những trận giao tranh quyết liệt giữa quân nổi dậy và quân Triều đình. Một lần quân Triều đình bị vây ở đât Tứ Kỳ, danh tướng Triều đình là Hoàng Ngũ Phúc phải đến giải vây, Khi qua vùng Ninh Giang bị quân nổi dậy chặn đánh gây nhiều thiệt hại. Triều đình phải cử quân của Phạm Đình Trọng về đánh quân của Nguyễn Hữu Cầu ở ngá ba sông Tranh. Lần ấy quân Nguyễn Hữu Cầu thua chạy.
-Vào đời Gia Long 1808 vùng Hải Dương có quân Tàu Ô làm loạn. Nhân dân huyện Vĩnh Lại và một số huyện trong vùng cùng quân Triều Đình chiến đấy anh dũng, bắt được nhiều giặc , được Vua ban thưởng.
Vào đời Tự Đức(1858), Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của Pháp vào nước ta. Tại Hải dương nhiều huyện như Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Gia Lộc, thành Hải Dương bị giặc chiếm đóng, triều đình phải huy động quân từ nhiều tỉnh, kể cả Thanh Hóa và Nghệ An, có lúc số quân huy động lên tới 15000 quân cùng nhiều thuyền tàu và đại bác dẹp giặc.
Di tích văn hóa
Không nổi tiếng về du lịch nhưng Ninh Giang cũng có một vài Đền_Chùa mang đậm dấu ấn lịch sử như: Đền quan tuần Tranh(hay còn gọi là đền Tranh) là một trong những ngôi đền lớn và nổi tiếng ở Ninh Giang, Chùa Chông, Đình Làng Xuyên Hử,... Đình Làng Xuyên Hử là nơi thờ Vị Thành Hoàng của Làng, trong kháng chiến chống Pháp người dân địa phương đã che dấu cán bộ cách mạng tại đây... người dân còn tháo dỡ Đình Làng lấy vật liệu làm cầu Đồng Bình phục vụ kháng chiến. Tháng 3 năm 2006 được sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương đình làng Xuyên Hử đã được tái tạo lại.
Địa phận xã Tân Phong thuôc huyện Ninh Giang trước đây có rất nhiều các di tích đình, chùa, miếu mạo. Đặc biệt đình Chuông với những cât cột gỗ lim hai người ôm và những phiến đá xanh lát hè nặng hàng chục tấn, Chùa Chuông với rất nhiều tượng phật... Hiện nay đình chùa đã bị phá hết (trong cải cách văn hoá), thời gian gần đây, người dân đã phục dựng lại chùa Chuông ở một vị trí khác nhưng các tượng thì đã không còn (đã bị thiêu hủy trong cải cách văn hoá). Năm 2005 chính quyền địa phương đã tổ chức khai quật tại nơi chôn những pho tượng phật của chùa Chuông cũ và thu giữ được rất nhiều di vật cổ gồm vài chục ngôi tương gỗ không còn nguyên vẹn nhưng những đường nét điêu khắc trên tượng của người xưa được xem là rất tinh tế và đẹp thì vẫn còn gần như nguyên vẹn. Hiện số tượng phật này vẫn được cất giữ tại chùa Chuông mới.
Đền La Khê thuộc Xã Ninh Thành Huyện Ninh Giang Tỉnh HảI Dương. khi xưa gọi là Làng Vào thuộc xã La Khê (   ) Tổng Đông Bối (  ) phủ Ninh Giang (   ) tỉnh Hải Dương (   )
Tương truyền Đền La Khê được nhân dân xây dựng từ rất sớm ở khu đất cao ở giữa làng, thờ Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU. Đền đã được tu sửa nhiều lần. Đến năm Duy Tân thứ 8 (1914) ngôi Đền được trùng tu và mở rộng.Kiến trúc kiểu chữ đinh (
) Gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung . Đền còn giữ nguyên các hoa văn ,phù điêu mang nét văn hoá thời Nguyễn và các hiện vật như : Ngai thờ ,Mũ đồng ,Khám chỉ ,Bát biểu ,Xà mâu v .v .và 3 pho tượng: Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Phò Bà Trưng ,Giữ chức : Điện Tiền đô chỉ huy Sứ Tướng Quân Tượng Mẫu Hậu Huệ Nương (Mẹ của Tướng Quân Hồ Đại Liệu ). thờ Tượng Ngài Hà Quý Công -tự Bút Hoa Đỗ Thám hoa đời Trần. Đền La Khê suy tôn Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Là Thành hoàng làng Có nhiều sắc phong Qua¸các Triều Đại Hiện Được Lưu giũ tại Sở văn Hoá Tỉnh Hải Dương và Viện thông tin khoa học xã hội i: (TT – TS FQ 4018 I X ,44 F2)
.Không những vậy Đền La Khêtrong 9 năm kháng chiến chống Pháp Đền cũng là nơi sơ tán của Trường Đại học Bắc Sơn được đón Đ/c Tôn Đức Thắng về thăm và nói chuyện và cũng là trụ sở hội họp của Mặt trận cứu Quốc Huỵện Ninh Giang Năm 1949 Đền La Khê là Bệnh viện dã chiến của Quân khu Tả Ngạn Thế rồi Năm 1952 Giặc Pháp càn quét đốt phá phần Hậu cung hỏng hoàn toàn.Tượng,đồ thờ đã được nhân dân cất giữ năm gian tiền tế không được trùng tu đã mai một xuống cấp theo thời gian. Đến tháng 10 – 1997 được nhân dân tu tạo rât khang trang . HALUU ST
Đền thờ Khúc Thừa Dụ tại Thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương, khánh thành đền thờ ngày 11-9 -2009 Đền thờ thờ 3 pho tượng : Khúc Thừa Dụ- Khúc Thừa Hạo -Khúc Thừa Mỹ

Công trình có tổng diện tích hơn 57.000m2, gồm 5 hạng mục chính, được khởi công xây dựng năm 2005, với tổng vốn đầu tư 38.3 tỷ đồng. 3 loại vật liệu quý để làm đền thờ là đá xanh, gỗ lim và đồng.
Đền thờ Anh hùng Dân tộc Khúc Thừa Dụ nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp.
Đây là một công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và du lịch to lớn, nhằm tôn vinh người Anh hùng dân tộc có công đặt nền móng cho nền độc lập, tự chủ của Việt Nam sau 1.000 năm chịu ách thống trị của phong kiến phương Bắc, là một biểu tượng đẹp về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương.
Cùng với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong tỉnh như Côn Sơn-Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, Đền thờ Nhà giáo Chu Văn An, Đền thờ Khúc Thừa Dụ sẽ là một địa chỉ thu hút khách tham quan, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ...

 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. Xã Ứng Hòe Ninh Giang Hải Dương - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Học thuyết kinh tế
Copyright © 2013. Xã Ứng Hòe Ninh Giang Hải Dương - All Rights Reserved