Topics :
Được tạo bởi Blogger.

Bài đăng phổ biến

Latest Post
Hiển thị các bài đăng có nhãn LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng

Sự hình thành của Làng quê Việt Châu thổ sông Hồng

Làng Việt cổ đồng bằng châu thổ sông hồng


Tự ngàn xưa, cư dân Việt cổ đã lần lượt chinh phục đồng bằng sông Hồng và khống chế thế lực thủy một cách thắng lợi, để chung sống và bắt thế lực thủy phục vụ làm lợi cho con người.
Hơn hai ngàn năm nay, dọc hai bên triền sông Hồng là làng quê trù phú, đê bao quanh uốn theo các dòng chảy; làng xóm ruộng đồng quanh năm tươi tốt. Hơn hai thiên niên kỷ nay con cháu người Việt cổ bám trụ vững vùng đồng bằng sông Hồng, đó là điều diệu kỳ, nhưng có mấy ai biết người xưa đã vất vả và điêu đứng thế nào để có được như ngày nay.
Lịch sử - sử sách, chẳng ghi chép lại thực trạng này, cũng có thể đã có người ghi chép nhưng nay không còn. Nhưng dù sao thì chính người Việt cổ đã ghi chép lại kỳ tích chinh phục đồng bằng sông Hồng, qua hàng loạt chuyện kể và truyền thuyết. Kể từ chuyện Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Chiến tranh Hùng Vương - Thục Vương, Truyện cổ nỏ thần, Chử Đồng Tử - Tiên Dung, Mai An Tiêm… Những chuyện kể vừa dẫn muốn chuyển đến cho các thế hệ mai sau kỳ tích chinh phục đồng bằng sông Hồng của tiền nhân, không bằng biên niên lịch sử, mà bằng hình tượng văn học dân gian  - vốn là kênh chở tải hữu hiệu nhất lịch sử cho con cháu.
Cuộc chinh phục đồng bằng sông Hồng bắt đầu từ việc cư dân cổ rời bỏ cuộc sống hang động ở rừng núi (như hang động núi đá vôi vùng Hoà Bình) tiến xuống cư trú tại xứ sở sông nước mênh mang này, mà dấu tích của họ được các nhà khảo cổ học phát hiện trong suốt thế kỷ XX đến nay là những minh chứng thuyết phục. Và khi cư dân cổ dừng chân được ở vùng cao (tức vùng trung du) của châu thổ sông Hồng, họ bắt đầu cuộc chung sống với sông nước để dần dần chinh phục nó một cách tuyệt mỹ.
Khởi đầu cuộc chinh phục lưu vực sông Hồng, được phản ánh trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, tích chuyện nói về cuộc hôn nhân của hai người có 2 xuất xứ khác nhau là rồng lấy tiên và sinh ra 100 người con; sau vì không hợp nhau, Lạc Long Quân dẫn 50 người con về vùng sông nước sinh sống, còn Âu Cơ cùng 50 người con ở lại vùng cao.
Nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ tục truyền ở vùng Phú Thọ. Ngày nay ở xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ còn đền thờ Âu Cơ, như chứng tích của cuộc hôn nhân được truyền tụng đã hơn 3 thiên niên kỷ. Lạc Long Quân cùng 50 người con đi về biển và sự trở về cội nguồn này phản ánh một hiện tượng lịch sử là họ bắt đầu cuộc đổ bộ vào vùng châu thổ. Nhưng cuộc đổ bộ như thế nào thì không có bất kỳ một dấu tích và minh chứng để lại, chỉ biết sau này trầm tích của nhiều làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, khi kể về thần thành hoàng đều nói vị thần là 1 trong 50 người con cùng Lạc Long Quân về trấn giữ đất này (mà thường ở cửa sông biển, nơi có những dòng chảy nguy hiểm). Dường như các chàng trai con của Lạc Long Quân đã biết chung sống với sông nước, mà nhiều người trong họ được suy tôn là thuỷ thần, trấn giữ các đoạn sông biển, cứu nguy cho thuyền bè qua lại và những ai bị thuỷ nạn. Tất nhiên thuỷ tai vẫn thường xuyên rình rập chưa có cách gì có thể khống chế được.
Cuộc chinh phục đồng bằng sông Hồng và chế ngự thuỷ tai, có lẽ gay go nhất được phản ánh trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh. Người đời dựng nên nghịch cảnh, hai chàng Sơn Tinh và Thuỷ Tinh cùng đến với công chúa của Vua Hùng Duệ Vương tên là Ngọc Hoa, vua ưng cả hai chàng mà không biết chọn ai, bên thách đố sáng sớm ngày nọ, ai mang đến trước voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao làm sính lễ thì được làm phò mã. Và Sơn Tinh đã đến trước Thuỷ Tinh rồi rước Ngọc Hoa về Ba Vì. Với tình tiết này, chứng tỏ lúc đó thế lực núi đã thắng thế lực sông nước, chính ý đồ của Vua Hùng lại chọn 3 loài vật ở núi (không phải sông nước) nên Sơn Tinh chiến thắng là logic.
Lại nữa, sau khi mất Ngọc Hoa. Kết cục Thủy Tinh thua, phải lui nước xuống, để rồi hàng năm Thuỷ Tinh nhớ lại mối thù xưa dâng nước lên cao như muốn đòi lại Ngọc Hoa. Đây là chiến công đầu tiên chinh phục sông nước của cư dân Việt cổ- một chiến thắng thuyết phục, song chỉ xảy ra ở vùng trung du mà thôi. Đây là địa bàn cư trú của nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương. Vậy mà lâu nay người ta cho rằng truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh phản ánh công cuộc trị thuỷ đắp đê của người Việt cổ! Làm gì có đắp đê ở đây, như sách Thuỷ kinh chú đã chép thì ruộng ở đây “theo nước triều lên xuống mà làm”, đê bao xuất hiện sau khi đã chinh phục lưu vực sông Hồng.
Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh là khúc dạo đầu cho công cuộc chinh phục đồng bằng sông Hồng, nhưng vẫn chưa chinh phục và thuần phục được thế lực thuỷ. Đồng sáng tác ra Sơn Tinh - Thuỷ Tinh vẫn quy cho Thuỷ Tinh là một thế lực bất trị, là kẻ thù không đội trời chung, như câu ca vẫn lưu truyền: Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.
Trong tâm thức cư dân Việt cổ được phản ánh trong Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, như vẫn day dứt một mối thù với thuỷ nạn, bởi vì thế lực thuỷ với họ là quá tầm, hồng thuỷ vẫn là thứ giáng xuống bất cứ lúc nào, và sự khống chế thuỷ nạn là vô cùng khó khăn.
Với sự định đô ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội) của Thục phán An Dương Vương, coi như công cuộc chinh phục đồng bằng sông Hồng trên cơ bản đã hoàn tất, cư dân Việt cổ hoàn toàn làm chủ vùng sông nước mênh mông và hung dữ này. Truyện An Dương Vương xây Thành ốc, hay chuyện Nỏ thần, ngoài các giá trị lịch sử như mọi người từng biết, thì tích truyện thông điệp với con cháu hậu thế rằng, cư dân thời An Dương Vương đã coi thế lực thuỷ như ân nhân của mình.
Tiêu biểu cho thế lực thuỷ là Rùa Vàng. Rùa Vàng đã bị chinh phục và giúp An Dương Vương xây đắp thành Cổ Loa giữa vùng sông nước một cách thắng lợi. Sau lại trút móng rùa thần cho An Dương Vương làm lẫy nỏ thần, bắn một phát bay hàng trăm mũi tên. Kết thúc truyện, Rùa Vàng rẽ nước, rước An Dương Vương vào thuỷ cung. Thế lực thuỷ ở đây đã bị khuất phục bởi con người làm nên sự nghiệp lớn và thuỷ chung với người. Điều này chỉ có thể giải thích được một cách rõ ràng và có sức thuyết phục, khi sang trang lịch sử rằng thuở An Dương Vương cư dân cổ đã tràn xuống khống chế thế lực thuỷ, làm chủ đồng bằng sông Hồng. Nhiều dấu tích văn hoá có tuổi hơn 2.000 năm vẫn liên tục bị khám phá trong lòng châu thổ, nơi có độ cao chừng 4 – 5m so với mực nước biển, như là chứng tích bất diệt của công cuộc chinh phục đồng bằng sông Hồng. Nếu như trong Sơn Tinh - Thuỷ Tinh thì thế lực thuỷ là kẻ thù muôn kiếp, thì trong Nỏ thần, thế lực thuỷ lại là cứu tinh, là ân nhân, là tận tình, tận nghĩa với người.
Ba tích chuyện vừa dẫn như 3 mốc lớn chứng minh rằng cư dân Việt cổ đứng trụ được - bắt đầu cuộc chinh phục và chinh phục hoàn toàn chiến thắng đồng bằng sông Hồng. Công cuộc ấy kéo dài gần trọn thiên niên kỷ I trước công nguyên, tức cách ngày nay gần 3.000 năm đến hơn 2000 năm trước. Nếu quy sang lịch sử như ghi chép của các bộ sử biên niên và của khảo cổ học là vào khoảng thế kỷ 7 – 8 trước công nguyên đến đầu thế kỷ 3 trước công nguyên.
Không hẳn là với An Dương Vương, mà là vào thời Hùng Vương, nhất là Hùng Vương thứ 18 (đời Vua Hùng liền trước An Dương Vương) cuộc chinh phục sông nước châu thổ đạt được thắng lợi đáng kính nể, biểu hiện ở tích truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung, nàng công chúa này đã dòng thuyền xuống hạ lưu, quây màn tắm bên bãi sông và gặp chàng trai họ Chử, rồi họ lập nghiệp ở vùng sông nước mặc cho muôn vàn trở ngại. Nhưng ở tích truyện này thế lực thuỷ vẫn rất lớn, chỉ trong vòng một đêm nước đã chôn vùi cả cơ nghiệp của họ. Đó chính là đầm Dạ Trạch, nơi có một cơ ngơi nguy nga và cũng là nơi nước ngập tràn. Con người đã chiến thắng thủy và thất bại bởi thế lực thủy. Nhưng dầu sao cuộc thử sức của con người trong tích truyện này chứa đựng nhiều giá trị và kinh nghiệm chinh phục sông nước của cư dân cổ, và chiến thắng của con người vẫn có điều kiện và phập phù.
Vào thời điểm đó, còn có tích truyện Mai An Tiêm, ngoài các giá trị lịch sử và kinh tế với việc được giống dưa hấu, còn phản ánh cuộc chinh phục sông biển của cư dân cổ mà Mai An Tiêm là người đại diện. Trong Chử Đồng Tử - Tiên Dung vẫn có ánh xạ về sự nghiệp này, bằng chứng là các chuyến vượt biển của chàng trai vào tận núi Nam Giới (nay thuộc Thạch Hà – Hà Tĩnh) và lập Quỳnh Viên ở núi này, vẫn còn dấu tích.
Như vậy cư dân cổ đã lần lượt chinh phục đồng bằng sông Hồng và khống chế thế lực thủy một cách thắng lợi, để chung sống với nó và bắt thế lực thủy phục vụ làm lợi cho con người. Những con đê bao hai bên triền sông như chúng ta thấy nối dài thêm sự nghiệp trị thủy của người xưa, và ngày nay các nhà máy thủy điện khẳng định sự nghiệp của cư dân cổ thật là vĩ đại./.

Địa chí huyện Ninh Giang

Bánh gai  Ninh Giang
Huyện Ninh Giang 
  Diện tích: 135,4 km2
Dân số: 146.780 người
Đơn vị hành chínhHuyện có 01 Thị trấn và 27 xã
Thị trấn: Ninh Giang
Các xã: Hiệp Lực, Hồng Dụ, Vĩnh Hoà, Tân Hương, Quyết Thắng, Ninh Hoà, Hồng Đức, Đông Xuyên, Hồng Phong, Tân Phong, Hưng Long, Văn Hội, Quang Hưng, Hồng Thái, Đồng Tâm, Ninh Thành, Nghĩa An, Ứng Hoè, Vạn Phúc, An Đức, Ninh Hải, Kiến Quốc, Hồng Phúc, Hưng Thái, Tân Quang, Hoàng Hanh, Văn Giang
Vị trí địa lý
Ninh Giang là một huyện phía Đông Nam của tỉnh, nằm bên bờ sông Luộc và tiếp giáp với các tỉnh Thái Bình, Hải Phòng vị trí khoảng 20o 43’vĩ Bắc,106o 24’ kinh Đông. Ninh Giang phía Nam giáp xã Thắng Thủy (Hải Phòng) bằng con sông Luộc , phía Bắc giáp xã Đồng Tâm, Tây Giáp xã Hiệp Lực( xã em đó :) ) phía Tây Nam giáp xã An Khê, phía Đông Giáp xã Hà Kỳ. Theo đường bộ Ninh Giang cách thành phố Hải Dương 29km, Hà Nội 87 km. Về đường bộ tiếp giáp và có các con đường chạy qua 17A, 17B, 217
-Đi Hải Dương - Vĩnh Bảo bằng đường 17A
-Đi Quí Cao- Hải Phòng bằng đường 17B
-Đi Quỳnh Phụ Thái Bình bằng đường 217
-Đi Hưng Yên bằng tuyến sông Luộc
Ninh Giang cách biển 25km( đường chim bay) Thời tiết khí hậy như Hải Phòng và Thái Bình
     
                                   Bánh lá gai - một trong những đặc sản nổi tiếng của huyện Ninh Giang
Sự kiện và con người
Vùng đất Ninh Giang xưa trong một số bộ sử và tiểu thuyết đã nhắc tới. Mỗi thời kỳ với những tên gọi khác nhau, được nhắc tới nhiều nhất là Hồng Châu, Hạ Hồng, Vĩnh Lại.
Kết quả khảo sát và khảo cổ học năm 1982 ở huyện Quỳnh Phụ ( Thái Bình) giáp với Ninh Giang qua sông Luộc, phát hiện thấy phế tích mộ đời Hán. Công trình trên kết luận: vùng đất Quỳnh Phụ ít ra trước kia cũng có dân cư trước Công nguyên, cư dân từ trung du ( Vĩnh Phú,Tuyên Quang) hoặc Biển( Thanh Hóa –Nghệ An) đến lập nghiệp ở đây. Ninh Giang xa biển hơn Quỳnh Phụ, đất bồi tụ trước quỳnh Phụ vì vậy mà sẽ có dân cư trước Quỳnh Phụ. Như vậy muộn nhất cư dân Ninh Giang cũng phái có trước Công nguyên ( tức hơn 2000 năm ).
-Năm 40 Hai Bà Trưng khởi nghĩ. Nhà Hán cử Mã viện sang đàn áp. Tại cùng Hạ Hồng dã chứng kiến cuộc giao tranh giữa 2 bên. Phá vây ở Hạ Hồng Hai Bà chạy về Thạch Bàn. Đô Lượng 1 tướng giỏi của Hai Bà Trưng có cứ quân đóng ở Hiệp Lực( Ngã ba sông Hóa).
Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đất nước lại trải qua 1000 năm Bắc thuộc. -Vào thế kỷ thứ X, tương truyền rằng có một người ở làng Cúc Bồ( nay là xã Kiến Quốc) là Khúc T Thừa Dụ đã chiêu binh mã nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc. Trong lịch Triều hiến chương loại chí có ghi:
-“Cuối đời Đường thổ hào là Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu chiếm lấy cứ thành tự xưng là Tiết Độ Sứ.. rồi đến cháu là Khúc Thừa Mỹ nối chức, yêu cầu nhà Lương cho làm Tiết Độ Sứ. Khi ấy nhà Nam Hải chiếm đất Phiên Ngung, đem quân đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ , rồi đặt Thứ Sử. viên tướng của Khúc là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh châu thành, tự xưng là Tiết Độ Sứ, sau bị nha tướng là Kiều Công Tiến giết chết. Khi ấy có một biệt tướng của Diên Nghệ giết Tiến, đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, tự xưng là vua đóng đô ở Loa thành( Cổ Loa ngày nay)
-Vào thế kỷ thứ XV sau cuộc bảo vệ đất nước của nhà Hồ thất bại nước ta bị ách thống trị của Nhà Minh -Trong thời kỳ này sử còn ghi lại một sự kiện:Vào mùa xuân năm 1418 Lê Lợi dấy binh ở Thanh Hóa thì 1419 tại châu Hạ Hồng, Trịnh Công Chứng và Lê Hành dấy quân đánh Tống binh Lý Bân của nhà Minh ở vùng Bắc
Sau cuộc kháng chiến thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi vua, lập nên một vương triều phong kiến cực thịnh ở Việt Nam. Ở thời điểm đó Ninh Giang chứng kiến sự kiện lạ, sử cũ ghi: “Mùa hạ, tháng tư năm 1443, có rồng hiện ở bến đò Hóa( huyện Vĩnh Lại)”
-Đầu thế kỳ thứ XVI nhà Lê bước vào thời suy vong Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê , trong nước diễn ra nhiều cuộc chiến một bên là Chúa Trịnh( dưới danh nghĩa Phù Lê) và một bên là Mạc. Đây là thờ kỳ nội chiến kéo dài, chiến tranh xảy ra liên miên. Ninh Giang nằm trong vùng chiến ác liệt. Tháng 2/1959 sau khi thu phục xứ Hải Dương Trịnh Tùng sai quân đến xã Thanh Giang( huyện Vĩnh Lại) đóng quân vài hôm rồi về kinh.
-Năm 1594 phủ Hạ Hồng có nhiều quân cát cứ chống Trịnh Tùng. Tháng 7 năm ấy Mạc Kính Chương chiếm huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ, còn huyện Vĩnh Lại có Lai Quận Công. Những năm ấy xứ Hải Dương mất mùa to, chết đói 1/3.
-Năm 1595 Trịnh Tùng cử Trịnh Văn chương về trấn giữ huyện Vĩnh Lại. Năm 1598 Nguyễn Hoàng lại được cử về xứ Hải Dương dẹp quân chống đối. Thời Lê Trung Hưng vào năm 1740 có nhiều cuộc nôit dậy chống nhà Chúa: Thái Bình có Công Chất, Nam Hà có Tú Cao, Vĩnh Phú có Nguyễn Danh Phương và Hải Dương có Hữu Cầu( Quận He), Ninh Giang là một trong những địa bàn hoạt động của Quận He. Tại đất Tranh Xuyên có những trận giao tranh quyết liệt giữa quân nổi dậy và quân Triều đình. Một lần quân Triều đình bị vây ở đât Tứ Kỳ, danh tướng Triều đình là Hoàng Ngũ Phúc phải đến giải vây, Khi qua vùng Ninh Giang bị quân nổi dậy chặn đánh gây nhiều thiệt hại. Triều đình phải cử quân của Phạm Đình Trọng về đánh quân của Nguyễn Hữu Cầu ở ngá ba sông Tranh. Lần ấy quân Nguyễn Hữu Cầu thua chạy.
-Vào đời Gia Long 1808 vùng Hải Dương có quân Tàu Ô làm loạn. Nhân dân huyện Vĩnh Lại và một số huyện trong vùng cùng quân Triều Đình chiến đấy anh dũng, bắt được nhiều giặc , được Vua ban thưởng.
Vào đời Tự Đức(1858), Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của Pháp vào nước ta. Tại Hải dương nhiều huyện như Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Gia Lộc, thành Hải Dương bị giặc chiếm đóng, triều đình phải huy động quân từ nhiều tỉnh, kể cả Thanh Hóa và Nghệ An, có lúc số quân huy động lên tới 15000 quân cùng nhiều thuyền tàu và đại bác dẹp giặc.
Di tích văn hóa
Không nổi tiếng về du lịch nhưng Ninh Giang cũng có một vài Đền_Chùa mang đậm dấu ấn lịch sử như: Đền quan tuần Tranh(hay còn gọi là đền Tranh) là một trong những ngôi đền lớn và nổi tiếng ở Ninh Giang, Chùa Chông, Đình Làng Xuyên Hử,... Đình Làng Xuyên Hử là nơi thờ Vị Thành Hoàng của Làng, trong kháng chiến chống Pháp người dân địa phương đã che dấu cán bộ cách mạng tại đây... người dân còn tháo dỡ Đình Làng lấy vật liệu làm cầu Đồng Bình phục vụ kháng chiến. Tháng 3 năm 2006 được sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương đình làng Xuyên Hử đã được tái tạo lại.
Địa phận xã Tân Phong thuôc huyện Ninh Giang trước đây có rất nhiều các di tích đình, chùa, miếu mạo. Đặc biệt đình Chuông với những cât cột gỗ lim hai người ôm và những phiến đá xanh lát hè nặng hàng chục tấn, Chùa Chuông với rất nhiều tượng phật... Hiện nay đình chùa đã bị phá hết (trong cải cách văn hoá), thời gian gần đây, người dân đã phục dựng lại chùa Chuông ở một vị trí khác nhưng các tượng thì đã không còn (đã bị thiêu hủy trong cải cách văn hoá). Năm 2005 chính quyền địa phương đã tổ chức khai quật tại nơi chôn những pho tượng phật của chùa Chuông cũ và thu giữ được rất nhiều di vật cổ gồm vài chục ngôi tương gỗ không còn nguyên vẹn nhưng những đường nét điêu khắc trên tượng của người xưa được xem là rất tinh tế và đẹp thì vẫn còn gần như nguyên vẹn. Hiện số tượng phật này vẫn được cất giữ tại chùa Chuông mới.
Đền La Khê thuộc Xã Ninh Thành Huyện Ninh Giang Tỉnh HảI Dương. khi xưa gọi là Làng Vào thuộc xã La Khê (   ) Tổng Đông Bối (  ) phủ Ninh Giang (   ) tỉnh Hải Dương (   )
Tương truyền Đền La Khê được nhân dân xây dựng từ rất sớm ở khu đất cao ở giữa làng, thờ Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU. Đền đã được tu sửa nhiều lần. Đến năm Duy Tân thứ 8 (1914) ngôi Đền được trùng tu và mở rộng.Kiến trúc kiểu chữ đinh (
) Gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung . Đền còn giữ nguyên các hoa văn ,phù điêu mang nét văn hoá thời Nguyễn và các hiện vật như : Ngai thờ ,Mũ đồng ,Khám chỉ ,Bát biểu ,Xà mâu v .v .và 3 pho tượng: Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Phò Bà Trưng ,Giữ chức : Điện Tiền đô chỉ huy Sứ Tướng Quân Tượng Mẫu Hậu Huệ Nương (Mẹ của Tướng Quân Hồ Đại Liệu ). thờ Tượng Ngài Hà Quý Công -tự Bút Hoa Đỗ Thám hoa đời Trần. Đền La Khê suy tôn Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU Là Thành hoàng làng Có nhiều sắc phong Qua¸các Triều Đại Hiện Được Lưu giũ tại Sở văn Hoá Tỉnh Hải Dương và Viện thông tin khoa học xã hội i: (TT – TS FQ 4018 I X ,44 F2)
.Không những vậy Đền La Khêtrong 9 năm kháng chiến chống Pháp Đền cũng là nơi sơ tán của Trường Đại học Bắc Sơn được đón Đ/c Tôn Đức Thắng về thăm và nói chuyện và cũng là trụ sở hội họp của Mặt trận cứu Quốc Huỵện Ninh Giang Năm 1949 Đền La Khê là Bệnh viện dã chiến của Quân khu Tả Ngạn Thế rồi Năm 1952 Giặc Pháp càn quét đốt phá phần Hậu cung hỏng hoàn toàn.Tượng,đồ thờ đã được nhân dân cất giữ năm gian tiền tế không được trùng tu đã mai một xuống cấp theo thời gian. Đến tháng 10 – 1997 được nhân dân tu tạo rât khang trang . HALUU ST
Đền thờ Khúc Thừa Dụ tại Thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương, khánh thành đền thờ ngày 11-9 -2009 Đền thờ thờ 3 pho tượng : Khúc Thừa Dụ- Khúc Thừa Hạo -Khúc Thừa Mỹ

Công trình có tổng diện tích hơn 57.000m2, gồm 5 hạng mục chính, được khởi công xây dựng năm 2005, với tổng vốn đầu tư 38.3 tỷ đồng. 3 loại vật liệu quý để làm đền thờ là đá xanh, gỗ lim và đồng.
Đền thờ Anh hùng Dân tộc Khúc Thừa Dụ nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp.
Đây là một công trình có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và du lịch to lớn, nhằm tôn vinh người Anh hùng dân tộc có công đặt nền móng cho nền độc lập, tự chủ của Việt Nam sau 1.000 năm chịu ách thống trị của phong kiến phương Bắc, là một biểu tượng đẹp về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương.
Cùng với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong tỉnh như Côn Sơn-Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, Đền thờ Nhà giáo Chu Văn An, Đền thờ Khúc Thừa Dụ sẽ là một địa chỉ thu hút khách tham quan, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ...

Sơ thảo lịch sử Ninh Giang Hải Dương

Đình làng Đỗ xã Ứng Hòe Ninh Giang Hải Dương

Con người Ninh Giang có truyền thống đoàn kết,nguồn lao động,cần cù,khả năng tiếp thu kỹ thuật nhanh,nhạy bén trong cơ chế mới.


Vùng đất Ninh Giang xưa trong một số bộ sử và truyền thuyết đã nhắc tới. Mỗi thời kỳ với mỗi tên gọi khác nhau,được nhắc tới như Hồng Châu,Hạ Hồng,Vĩnh Lại.


Từ thời Lý - Trần,Ninh Giang là miền đất thuộc Phủ Hạ Hồng (Hồng Lộ) "1". Thời thuộc Minh,Phủ Hạ Hồng thuộc Phủ Tân An,đến đời Lê đổi lại thành phủ Hạ Hồng,Phủ Hạ Hồng là đất các huyện Ninh Giang, Thanh Miện,Tứ Kỳ (tỉnh Hải Dương "2" và huyện Vĩnh Bảo ( Hải Phòng ). Đến năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) Phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang,gồm đất các huyện Vĩnh Lại,Gia Lộc và Vĩnh Bảo.


Huyện Ninh Giang từ thời Lý - Trần,đến thời thuộc Minh đổi là Đồng Lợi ( thuộc châu Hạ Hồng ). Thời Lê sơ đổi lại là Đồng Lại,sau lại đổi thành Vĩnh Lại gồm các xã của huyện Ninh Giang hiện nay,một phần của xã Thanh Giang ( Thanh Miện ) và một số xã của huyện Vĩnh Bảo "3"


Qua khảo cổ năm 1982 ở huyện Quỳnh Phụ ( Thái Bình ) giáp với Ninh Giang qua sông Luộc,phát hiện thấy những chế tích mộ đời Hán. Vùng đất Quỳnh Phụ có từ trước Công nguyên,dân cư từ trung du ( Vĩnh Phú, Tuyên Quang ) hoặc biển ( Thanh Hóa - Nghệ An ) đến lập nghiệp ở đây.


Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa,nhà Hán cử Mã Viện sang đàn áp. Tại vùng Hạ Hồi đã chứng kiến cuộc giao tranh giữa quân Hai Bà Trưng với quân giặc. Đô Dương một tướng nổi tiếng của Hai Bà Trưng có cử quân đóng ở Hiệp Lực ( ngã ba sông Hóa ). Sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đất nước lại trải qua 1000 năm Bắc thuộc.


( Ảnh )


Năm 905 có một người ở làng Cúc Bồ (nay là xã Kiến Quốc - Ninh Giang ) là Khúc Thừa Dụ đã chiêu binh mãi mã ở vùng Ninh Giang nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc. Trong Lịch Triều hiến chuơng lại chí có ghi: " Cuối đời Đường,thổ hào là Khúc Thừa Dụ người Hồng Châu chiếm cứ lấy thành,tự xưng là Tiết Độ Sứ. Rồi đến cháu là Khúc Thừa Mỹ nối chức,yêu cầu nhà Lương cho làm Tiết Độ Sứ. Khi ấy nhà Nam Hải chiếm đất Phiêu Ngung,đem quân đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ,rồi đặt Thứ Sử. Viên tướng của Khúc là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh Châu Thành,tự xưng là Tiết Độ Sứ,sau khi bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết chêt. Khi ấy có một biêt tướng của Diên Nghệ là Ngô Quyền giết Tiễn,đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng,tự xưng là vua đóng đô ở Loa Thành ( Cổ Loa ngày nay )


Vào thế kỷ XV sau cuộc chiến bảo vệ đất nước của nhà Hồ thất bại,nước ta bị ách đô hộ của nhà Minh.


Trong thời kỳ này còn ghi lại một sự kiện: Vào mùa Xuân năm 1418 Lê Lợi dấy binh ở Thanh Hóa thì năm 1419 tại châu Hạ Hồng,Trịnh Công Trứng và Lê Hành cùng một số người vùng khác dấy quân đánh Tống Binh Lý Bân của nhà Minh ở vùng phía Bắc.


Sau kháng chiến thắng lợi,Lê Lợi lên ngôi Vua,lập nên một Vương Triều phong kiến cực thịnh ở Việt Nam. Ở thời điểm đó Ninh Giang chứng kiến sự kiện lạ,sử cũ ghi: " Mùa hạ,tháng Tư năm 1443 có trồng hiện về bến đò Hóa ( huyện Vĩnh Lại ) ".


Đầu thế kỷ XVI nhà Lê bước vào con đường suy vong. MẠc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê,trong nước diễn ra nhiều cuộc chiến tranh một bên là Chúa Trịnh ( dưới danh nghĩa Phù Lê ) và một bên là nhà Mạc. Tháng 2 - 1592 sau khi thu phục xứ Hải Dương,Trịnh Tùng sai quân đến xã Tranh Giang ( huyện Vĩnh Lại ) đóng quân ở đấy vài hôm rồi về kinh.


Năm 1594 phủ Hạ Hồng có nhiều quân cát cứ chống Trịnh Tùng. Tháng 7 năm ấy Mạc Kính Chuơng chiếm huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ,còn huyện Vĩnh Lại có Lai Quận Công. Tháng 8 - 1594, Trịnh Tùng cử Nguyễn Hoàng ( sau này là Chúa Nguyễn ) đem thủy quân về Vĩnh Lại đánh Mạc Kính Cung,Mạc Kính Cung thua chạy.


Năm 1595 Trịnh Tùng cử Trịnh Văn Chương về chấn giữ huyện Vĩnh Lại. Năm 1598 Nguyễn Hoàng lại được cử về xứ Hải Duơng dẹp quân chống đối.


Thời Lê Trung Hưng vào năm 1740 có nhiều cuộc nổi dậy chống nhà Chúa : Thái Bình có Hoàng Công Chât,Nam Hà có Tú Cao,Vĩnh Phú có Đoàn Danh Phuơng và Hải Dương có Nguyễn Hữu Cầu ( quận He ),tại đất Tranh Xuyên có trận giao tranh quyết liệt giữa quân nổi dậy và quân Triều đình. Một lần quân Triều Đình bị vây ở đất Tứ Kỳ. Danh tướng Triều đình là Hoàng Ngũ Phúc phải đến giải vây. Khi qua vùng Ninh Giang,quân triều đình bị quân nổi dậy chặn đánh gây nhiều thiệt hại. Triều đình phải cử Phạm Đình Trọng về đóng quân ở làng Bối Thị ( huyện Vĩnh Lại ),ông giả vờ khao tướng sĩ rồi nửa đêm bất ngờ dùng quân thủy bộ tấn công Nguyễn Hữu Cấn ở ngã ba sông Tranh. Lần ấy quân Hữu Cấn thua chạy.


Vào đời Gia Long năm 1808 vùng Hải Dương có quân Tàu Ô làm loạn. Nhân dân Vĩnh Lại cùng một số huyện trong vùng và quân triều đình chiến đấu anh dũng,được Vua ban thưởng.


Vào thời tự Đức (1858),Pháp tấn công mơ đầu thời kỳ xâm lược nước ta trong khi tình hình đất nước đang trong nguy cơ ngoại xâm thì ở phía Bắc quân hạt nhà Thanh và một số người Việt kết cấu nổi lên quấy phá. Chiến sự lan ra nhiều tỉnh,trong đó ác liệt nhất là Hải DUơng,Hà Bắc,Hải Phòng và Quảng Ninh.


Sau Cách mạng tháng Tám (1945),Phủ Ninh Giang được chia làm 4 huyện Ninh Giang,Gia Lộc,Tứ Kỳ,Vĩnh Bảo. Huyện Ninh Giang đựoc giữ tên Ninh Giang cho đến tháng 4 - 1970 sát nhập với huyện Thanh Miện thành huyện Ninh Thanh. Tháng 4 năm 1996,huyện Ninh Giang được tái lập theo nghị định 05 của Chính Phủ nước Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam.


Huyện Ninh Giang nằm trên quốc lộ 37,bên sông Luộc,lại ở ngã ba - nơi tiếp giáp của 3 tỉnh Hải Dương,Thái Bình,Hải Phòng,thực sự là một địa bàn chiến lược quan trọng về mặt chính trị,giao lưu hàng hóa lẫn quân sự ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung và ở cửa ngõ phía Nam tỉnh Hải Duơng nói riêng. Cũng chính do vị trí quan trọng như vậy mà trong lịch sử,chính quyền phong kiến - thực dân luôn đặt trụ sở hành chính của phủ,huyện,tỉnh tại thị trấn Ninh Giang.


Là một huyện thuần nông,cư dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước,"canh nông vi bản" là phương thức sản xuất cơ bản,chủ đạo của nhân dân trong huyện. Trải qua hàng nghìn năm sản xuất nông nghiệp,người nông dân đã làm hạt lúa,củ khoai..góp phần không nhỏ vào việc trồng trọt,chọn lọc và giữ gìn nhiều giống lúa đặc sản có tiếng của tỉnh Đông như : Nếp bầu Huơng,Tám Xoan,Dự,Di Huơng...; Khoai lang Thói tiên vua nổi tiếng một thời ( làng Hói - Văn Hội ).


Với đặc điểm là một vùng thuần nông,đồng đất trũng,lại nằm trong vùng nhiệt đới - gió mùa,chịu ảnh hưởng rất lớn của gió mùa,bão lụt - sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn,đặc biệt là vụ mùa nhiều khi ruộng trũng trở thành "Bạch Điền"


Vùng đất Ninh Giang còn là nơi phát sinh,nuôi dưỡng nhiều nghề thủ công truyền thống nổi tiếng - góp phần không nhỏ vào việc tạo dựng đời sống vật chất tinh thân của nhân dân địa phuơng.


Ven bờ sông Luộc,suốt từ trại Vàng ( Hưng Long ) về đến cống Sao ( thị trấn Ninh Giang ),xưa kia tồn tại nghề vớt cá bột tự nhiên đồng thời đã đem lại giá trị không nhỏ trong


( ảnh)


việc tạo ra nguồn dinh dưỡng duy trì và tái tạo sức lao động đóng góp vào việc tao dựng một hình thức sản uất đem lại hiệu quả kinh tế cao. " Thứ nhất canh tri,thứ nhì canh viên,thứ ba canh điền" của nhân dân địa phuơng. Một nghề cổ truyền gắn với sản xuất nông nghiệp và đánh bắt thủy sản là đan lát có tiếng ở Văn Diệm ( Hưng Thái ),La Khê ( Ninh Thành ). Nghề này đem lại thu nhập kinh tế phụ gia đình trong lúc nông nhàn của cư dân ở làng quê ven sông.


Một số nghề truyền thống không những gắn liền với sản xuất mà còn mang đậm nét văn hóa truyền thống đặc sắc của nhân dân địa phuơng như nghề làm bánh gai ở thị trấn Ninh Giang tồn tại hàng trăm năm..


Dưới bàn tay khéo léo,tinh tế,giàu tính nghệ thuật ở nghề mộc Cúc Bồ ( Kiến Quốc ): các công trình kiến trúc nghệ thuật như đình,chùa,đền,miếu... đã được xây dựng và giữ gìn hàng chục thế kỷ nay. Mái đình,ngôi chùa dưới bóng đa xanh đằng sau lũy tre làng đã và mãi còn là biểu tưởng đặc trưng văn hóa cổ truyền của các làng xã Việt Nam trong lịch sử.


Do có vị thế thuận lợi về giao thông thủy bộ,tị trấn Ninh Giang sớm trở thành trung tâm thuơng mại của khu vực. Bến Ninh Giang được mệnh danh là bến Gạo. Thủ Phủ Ninh Giang xưa kia có hàng chục các dãy phố như: Ninh Thịnh,Ninh Hòa,Ninh Lãng,phố bờ Sông... Trên các dãy phố có đủ các mặt hàng: Luơng thực,thực phẩm,hàng tiêu dùng.... có nhiều hiệu buôn,lớn nhất là các hiệu buôn của người Hoa: Nhờ đó thúc đẩy kinh tế mau chóng phát triển,tạo điều kiện cho việc xây dựng phố phường sầm uất,trở thành một trong những thị trấn lớn ở miền Bắc trước đây.


Trên địa bàn huyện đã sớm hình thành chợ phiên như : Chợ Vé,chợ Gọc,chợ Bói,chợ Bùi,chợ Bò,chợ Sặt,chợ Đọ,chợ Mè,chợ Đụn,chợ Thói,chợ Bùng. Cư dân sống ở miền đất Ninh Giang có khoảng hơn 500 người Hoa,một người Ấn Độ,một người Pháp sinh sống Số người Hoa này chủ yếu sinh sống bằng nghề buôn bán và sống tập trung ở thị trấn Ninh giang. Hiện nay họ đã chuyển và không sống trên địa bàn Ninh Giang.


Đại đa số nhân dân trong huyện theo đạo Phật;có khoảng 10% số người là theo đạo Thiên chúa ở rải rác trong huyện song tập trung nhiều ở Bùi Hòa ( Hoàng Hanh ),Đồng Bình ( Ninh Hải ),Quang Rực ( Ninh Thọ ),Hiệp Lễ ( Hiệp Lực ),Bình Hoàng ( Vạn Phúc ), Đồng Vạn ( Ứng Hòe )....



( Ảnh)


Cư dân đến vùng đất này khai nghiệp hàng nghìn năm nay. Trải bao đời,sự sinh sôi nảy nơ làm dân cư ngày càng đông thêm. Cũng trong quá trình lịch sử đó vùng đất này còn tiếp nhân cư dân ở các vùng khác đến sinh sống một cộng đồng dân cư sông theo những khu vực địa lý nhất định như trại ấp rồi được mở mang hình thành làng xã như hiện nay. Dân cư trong làng xóm,trại,ấp của huyện thường có mối quan hệ thân tộc,mặt khác,họ có mối quan hệ cộng đồng mất thiết gắn bó trong quan hệ gia đình - làng nước - làng xã Việt Nam là cơ sở hành chính cuối cùng là tế bào của nhà nước phong kiến tồn tại hàng nghìn năm.


Cũng như cộng đồng dân cư của dân tộc Việt Nam nói chung,cư dân sống ở miền đất Ninh Giang có truyền thống quý báu : Cần cù,sáng tạo trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt văn hóa,yêu quê hương đất nước đoàn kết đấu tranh,nhân hậu,thủy chung..


Sự xuất hiện và tồn tại của nghề thủ công cổ truyền,sự tồn tại hàng loạt các các công trình kiến trúc văn hóa. Trên địa bàn huyện xưa có hàng trăm ngôi đình,chùa,đền,miếu là những công trình kiến trúc có giá trị văn hóa - nghệ thuật,được xây dựng làm nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phuơng,mặt khác còn là nơi tưởng niệm các danh nhân lịch sử - văn hóa - những người có công với quê huơng đất nước. Hiện nay còn lưu giữ một số côgn trình có giá trị cao về lịch sử - văn hóa: Chùa Đông Cao ( Đông Xuyên ) thời Lê,đình Trịnh Xuyên ( Nghĩa An ) thời hậu Lê đầu Nguyễn,nơi thờ vị danh tướng thời Lệ,đình Bồ Dương - thời Lê,là nơi diẽn ra một số sự kiện lịch sử rất quan trọng trong kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Đình Cúc Bồ quê hương của Khúc Thừa Dụ,đình Đỗ Xá ( Ứng Hòe ) là nơi thờ 3 vị danh tướng thời Lê. Hàng chục các di tích khác có giá trị lịch sử - văn hóa đang được nghiên cứu,bảo vệ và tôn tạo:
Đình La Khê ( Ninh Thành ),chùa Trông ( Hưng Long ),đình Văn ( Quang Hưng ),đền Tranh ( Đồng Tâm ) ,chùa Kim Chuế ( An Đức ),đình Đồng Bình và đình Bồng Lai ( Ninh Hải ),chùa Tiền ( Hiệp Lực ),miếu Tây Đà Phố ( Hồng Phúc ),đình Dậu Trì ( Hồng Thái )... Những địa danh lịch sử thời hiện đại: Tượng đài bác Hồ ( Hiệp Lực,Đài tưởng niệm bác Hồ ( Hồng Thái ),bia chiến thắng ở Ninh Thành và Ứng Hòe... và hàng chục hiện vật lịch sử trong kho bảo tàng huyện,đều có giá trị lịch sử,phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân trong huyện hơn nửa thế kỷ qua.



Gắn với các di tích lịch sử - văn hóa,các lễ hồi truyền thống được tổ chức hàng năm. Mục đích chính là để tửong niệm các danh nhân lịch sử văn hóa,những lễ hội lớn như lễ hội đình Trịnh Xuyên,hội Chùa Trông,hội đền Tranh,lễ hội đình Bồ Duơng... Những ngày lễ hội cũng là dịp nhân dân địa phuơng tổ chức sinh hoạt văn hóa với nhiều hình thức phong phú: Múa rối nước,múa sênh tiền,hát chèo,pháo đất,chọi gà.. Đó là nét sinh hoạt truyền thống,góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thân của nhân dân các làng xã .

 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. Xã Ứng Hòe Ninh Giang Hải Dương - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Học thuyết kinh tế
Copyright © 2013. Xã Ứng Hòe Ninh Giang Hải Dương - All Rights Reserved